ôi đã suýt rơi từ độ cao mấy trăm mét !
Ngày 11/3/75 , sau khi Ban mê thuột bị tấn công , đồn Ngã Sáu ở vùng 4 CSBV cũng bị CSBV tấn công , TĐ tôi được lịnh giải vây * . Vì tình báo thiếu sót (ko biết có nhiều TĐ CSBV đang chờ đợi) và địa thế trống trải , lại tiến quân giửa ban ngày nên TĐ lọt ổ phục kích và bị thiệt hại nặng (chết nhiều sq và bs) , phải rút về quận Hậu Mỹ cách đó vài km . Sáng hôm đó , trực thăng đến bốc đám TÀN QUÂN mất hết tinh thần về cc Đồng Tâm . Trực thăng vừa đáp xuống , lính tráng ồ ạt trèo lên , tôi là ng lên sau cùng , ngồi bỏ hai chân ra ngoài . Trực thăng cất cánh rất nhanh vì sợ hỏa tiển tầm nhiệt SA-7 . Khi trực thăng lên cao , gió đã muốn hút tôi ra ngoài : mấy người ngồi sau đã nắm dây ba chạc để giử tôi lại . Lúc đó , chỉ cần súng phòng không 12.8 ly hay SA-7 bắn lên , mọi ng trên máy bay nhốn nháo , hoảng sợ thì ko còn ai giử dây ba chạc thì tôi sẽ bị gió hút ra ngoài . Chưa bao giờ tôi sợ chết như lần đó !
Mấy ngày sau , đ.đ. trinh sát 7 đã vào vùng để thu lượm xác chết và lính bị thương : các sĩ quan đều bị bắn vở đầu , dòi bọ lút nhút ở các vết thương vì trời nắng . . . 1 trung sĩ bị CS bắt giử mấy ngày (y là HSQ lo về quân số , rất thân với tôi) .
TĐ về cc Đồng Tâm để nghỉ ngơi , bổ sung quân số nhưng tinh thần sa sút với tin chiến sự từ miền Trung gửi về . Sau đó đi HQ ở vùng Cai Lậy , Ba Dừa , v.v... tới ngày 30/4/75 thì tan hàng .
* Đồn này của ĐPQ , có 2 khẩu 105 ly : nếu CS chiếm được sẽ uy hiếp khu vực chung quanh . Sau này dựa vào tù binh , báo mạng của các CCB CSBV tôi biết , họ đã rải nhiều TĐ để phục kích bất cứ các đv nào đi giải cứu đồn này .
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc . . . (Lời Mở Đầu Của Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ)
Tuesday, July 18, 2017
Chiến thắng Ngã Sáu - Bằng Lăng
Bước vào mùa khô 1974 -1975, theo chỉ đạo của Quân ủy Miền, chiến dịch tiến công tổng hợp ở Quân khu 8 chia làm 2 đợt. Khi bước vào đợt 1, địch phát hiện được ý định của ta, chúng điều động quân chủ lực tập trung đối phó mạnh ở khu vực trọng điểm nên kết quả hoạt động của khối chủ lực không cao như dự kiến.
Từ kinh nghiệm thực tiễn và được sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh (BTL) Miền, Quân khu chủ trương chuyển bộ đội chủ lực Quân khu về tiến công mở màn chiến dịch tổng hợp đợt 2 là vùng Bắc Cái Bè. Với quyết tâm phải giành được thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên chiến trường Quân khu, vì thế BTL Quân khu sau khi thảo luận và đi đến nhất trí: Nếu giải phóng Vùng 4 Kiến Tường cũng không nhất thiết phải tập trung lực lượng như đợt 1, mà lần này địa bàn chiến dịch được mở ở huyện Cái Bè (Mỹ Tho) và Mỹ An ( Sa Đéc). Trong đó yếu khu Ngã Sáu là mục tiêu then chốt.
Yếu khu Ngã Sáu nằm trên phần đất xã Mỹ Trung, huyện Cái Bè, (theo địa giới hành chính của địch là quận Giáo Đức giáp với quận Mỹ An (Sa Đéc), trước là căn cứ tiền tiêu của Sư đoàn 7 ngụy, do quân Mỹ hỗ trợ xây dựng năm 1969 hiện tại quân ngụy biến thành yếu khu do Tiểu đoàn bảo an 450 của tỉnh Sa Đéc tăng cường cho tiểu khu Định Tường trấn giữ, quân số trên dưới 250 tên.
Ngoài trung đội pháo 105 ly, địch còn nhiều hỏa lực khác như 4 DKZ; khẩu 12 ly 7; 4 đại liên;2 cối 81 ly và 4 cối 60 ly; trung liên; khẩu M 79…Các căn cứ đồn bót có liên quan gồm: Chi khu Mỹ An, Chi khu Giáo Đức, Phân chi khu Thiên Hộ, Phân chi khu Thanh Mỹ…
Về phía ta, việc sử dụng lực lượng được BTL Quân khu quyết định giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 24 đánh vào mục tiêu chủ yếu, Trung đoàn 320 chặn viện từ hướng Đông, Trung đoàn 207 được Miền tăng cường đứng chân trên hướng Bắc yếu khu làm nhiệm vụ chặn viện, nếu chúng hành quân bằng tàu từ Hậu Mỹ Bắc xuống.
Trung đoàn 24 sau một thời gian chuẩn bị, đêm 10 - 3, đội hình Trung đoàn đến khu vực tập kết cuối cùng bờ nam Kinh 28, trên hướng chặn viện, đêm 9 rạng 10-3, từ Vùng 4 Kiến Tường,Trung đoàn 320 hành quân về trục kinh Bằng Lăng và về Cái Sơn (Mỹ Thiện).
Trung đoàn 207 cũng đưa đội hình Tiểu đoàn 2 vào chiếm lĩnh trận địa phía đông Kinh Nguyễn Văn Tiếp B đúng vị trí quy định. Đến 4 giờ 30 phút tất cả đều sẵn sàng nổ súng, liên lạc giữa Sở chỉ huy Trung đoàn với Quân khu thông suốt, BTL điện động viên chúc mừng thắng lợi bước đầu của tập thể Trung đoàn 24.
Đúng 5 giờ ngày 11-3, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 ra lệnh tiến công, lập tức các mũi đánh theo hiệp đồng, toàn bộ căn cứ bị rung chuyển và trùm lên một màn khói đen dày đặc, trên hướng tiến công của Đại đội 6 (Tiểu đoàn 5), lô cốt số 1 bị phá sập và 1 tổ của Đại đội 6 đã nhanh chóng chiếm lô cốt 1, lúc này địch phát hiện hướng tiến công của ta chúng đối phó kịp thời, chúng dùng các loại cối bắn chặn đội hình tiến công của ta ngay sát mé bờ kinh 28.
Về phía ta, hỏa lực các loại lúc này phát huy kém tác dụng, riêng ở hướng Đại đội 6 có thuận lợi hơn, 1 tổ của Đại đội 6 chiến đấu rất kiên cường, đánh bại nhiều lần phản kích của địch để giữ vững lô cốt đầu cầu tạo điều kiện phía sau đánh chiếm.
Hơn 10 phút chiến đấu 1 tổ thọc sâu đã chiếm được trận địa pháo, địch dùng hỏa lực ngăn chặn các mũi tiến công của Đại đội 6 rất quyết liệt, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng mục tiêu, nhiều lần địch phản kích nhưng đều bị chặn đứng. Lúc này quân số địch bị thương vong khá nhiều, không đủ sức phản kích để lấy lại trận địa đã mất.
Hướng Đại đội 8, vừa xung phong ra khỏi vị trí xuất phát tiến công thì bị 2 quả pháo bắn trúng đội hình, hỏa lực ở Phân chi khu Thanh Mỹ phí Tây Ngã Sáu bắn lướt sườn, do đó Đại đội 8 phải dừng lại để củng cố công sự. Cùng thời gian này Đại đội 3, Tiểu đoàn 4 đã tiêu diệt được 2 chốt bảo vệ từ xa trên hướng đông của yếu khu.
Trên hướng thứ yếu, Đại đội 1, Tiểu đoàn 4 cũng đánh chiếm lô cốt đầu cầu số 4, lực lượng địch còn lại co cúm khu chỉ huy và bờ thành phía tây đánh phản kích. Khoảng 6 giờ, kho đạn pháo của địch bị trúng đạn, nổ đến 7giờ 30 phút mới ngưng.
Lúc này hai hướng tiến công của ta tiếp tục phát triển đánh chiếm từng lô cốt, từng hầm ngầm, ta và địch giằng co nhau quyết liệt. Lúc này pháo binh địch các nơi bắn yểm trợ cho yếu khu bắt đầu thưa dần và bắt đầu chuyển làn về hướng bắc và hướng đông cách Ngã Sáu hơn 500m, khả năng chúng sẽ dọn đường cho quân đổ bộ.
Đúng như dự đoán của ta, khoảng 8 giờ 30 phút, ta phát hiện Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 10 của Sư đoàn 7 ngụy đã có mặt tại Cống Trâu, đến 9 giờ một tốp địch đi thẳng vào chính diện Đại đội 7, Tiểu đoàn 2, chúng đi cặp theo kinh Chín Viết, cách Bằng Lăng 1.500m. Đến 9 giờ 30 phút ta phát hiện khoảng 1 Đại đội địch chia làm 2 mũi, 1 mũi đi thằng vào đội hình Đại đội 6, mũi 2 thọc qua phía bắc 5 bụi tre, còn cách bộ phận chặn đầu Đại đội 5 khoảng 1.500 m.
Như vậy địch đã vào đúng phương án của ta. Để bảo đảm hợp vây diệt địch, Ban chỉ huy Trung đoàn 320 cho Đại đội 9, Tiểu đoàn 3 và bộ phận khóa đuôi Tiểu đoàn 1 ở xa vận động trước, còn Tiểu đoàn 2 vẫn phục kích tại chỗ.
Đến 10 giờ khoảng 1 đại đội địch lại vào chính diện Đại đội 5 và Đại đội 7, còn cách chừng 600m thì chúng dừng lại nấu cơm, có 1 mũi khác cắt chéo về hướng kinh Mới, đại bộ phận phía sau của địch đi vào hướng Tiểu đoàn 2. Lúc 10 giờ 10 phút, qua tin kỹ thuật địch báo là đã phát hiện ta ở kinh Bằng Lăng rất nhiều.
Ban chỉ huy Trung đoàn 320 nhận định: Quân đổ bộ đang nằm tại chỗ chờ pháo dọn đường, lực lượng hành quân bộ đại bộ phận quân địch lọt vào trận địa theo đúng phương án, địch có phát hiện được ta, có đề phòng cảnh giác hơn nhưng chúng chưa phát hiện được ý định của ta phục kích bao vây; ta vẫn giữ được yếu tố bí mật, đang hình thành thế bao vây quân địch. Trên cơ sở đó Ban chỉ huy Trung đoản 320 quyết tâm cơ động lực lượng ta bí mật hình thành thế bao vây và đồng loạt nổ súng xung phong theo phương án.
Với sự phối hợp nhịp nhàng, Trung đoàn 320 đã đánh ngăn chặn và tiêu diệt được lực lượng trên cánh đồng Bằng Lăng. Được tin chiến thắng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 thông báo kịp thời tình hình xuống các đơn vị thuộc quyền và động viên quyết tâm phải tiêu diệt gọn số địch còn lại đang cố thủ trong yếu khu, nhất định quân viện không đến được.
Tin chiến thắng của Trung đoàn 320 đã cổ vũ tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24. Đến 15 giờ, 2 mũi tiến công của Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 bắt tay nhau từng bước dồn địch thu hẹp lại bằng lối đánh gần, đánh chắc, giành giật với địch từng đoạn hào, từng lô cốt; thế của ta càng mạnh hơn, súng đạn của địch ta thu được dùng đủ các loại đánh rất hiệu quả.
Đến 17 giờ, địch chỉ còn lại khu chỉ huy và 3 lô cốt ( 8,9,10), Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 tập trung lực lượng đột phá mạnh vào khu chỉ huy của địch.Tuy cố chống cự nhưng trước sức tiến công của ta, số thương vong của địch càng lớn, chúng kêu pháo binh chi viện yểm trợ.
Đến 17 giờ 30 phút địch rút chạy về hướng tây vượt kinh Nguyễn Văn Tiếp. Như vậy sau nhiều đợt xung phong vào mục tiêu cuối cùng ta đã hoàn toàn làm chủ yếu khu Ngã Sáu lúc 18 giờ ngày 11-3. Cùng thời gian này bọn địch ở Phân chi khu Thanh Mỹ cũng bỏ chạy.
Sau khi làm chủ trận địa, Đại đội 13, Tiểu đoàn 6, được giao lệnh vào yếu khu làm nhiệm vụ chốt sẵn sàng đánh địch bảo vệ cho Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 thu dọn chiến trường. Đến 23 giờ ngày 11-3, đội hình Trung đoàn 24 lại về khu vực xuất phát (gần ngã tư kinh Bằng Lăng - kinh 28) củng cố lực lượng, bổ sung vũ khí trang bị, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Rạng sáng 12-3, Đại đội 13, Tiểu đoàn 6 cũng được lệnh rời khỏi yếu khu Ngã Sáu.
Trưa 12-3, địch sử dụng tiểu đoàn 3, Trung đoàn 11 chiếm lại yếu khu Ngã sáu. Quân khu quyết định sử dụng Trung đoàn 207, tiếp tục tiến công giải phóng căn cứ Ngã Sáu lần 2.
Sáng 13-3, cán bộ Trung đoàn 207 cùng cán bộ Tiểu đoàn 1 và các đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 đi trước nghiên cứu nắm tình hình địch và tình hình địa hình, các lực lượng còn lại sẽ hành quân tiếp sau đó.
Để thực hiện yêu cầu của Quân khu là phải giải quyết nhanh trận đánh, Trung đoàn chọn phương án lợi dụng yếu tố bất ngờ, đưa lực lượng thọc sâu vào trung tâm căn cứ, đánh gần, đánh nhanh tiêu diệt địch. Tiểu đoàn với 75 tay súng và Trung đội trinh sát của Quân khu tăng cường làm lực lượng tiến công chủ yếu. Hướng tiến công từ bắc kinh Nguyễn Văn Tiếp B vào thẳng căn cứ địch.
Diễn biến trận đánh: 20 giờ, ngày 13 -3, Tổ trinh sát do đ/c Ruộng ( Quân khu tăng cường) cùng 2 trinh sát Tiểu đoàn 1 vượt kinh Nguyễn Văn Tiếp B bí mật tiếp cận chốt tiền tiêu phía bắc căn cứ bắt 3 tên lính giao cho Trung đoàn khai thác, qua khai thác và động viên 3 tên này cho biết hệ thống bố phòng bên trong khu căn cứ, và đồng ý dẫn lực lượng ta vào bên trong đánh địch.
Đến khoảng 22 giờ, toàn bộ lực lượng Tiểu đoàn 1 đã vượt qua khỏi chốt gác và áp sát hàng rào cuối cùng của căn cứ, được lệnh tiến công các mũi nhanh chóng tiếp cận các mục tiêu, dùng lựu đạn và tiểu liên diệt địch trong căn cứ. Do bất ngờ, địch không kịp phản ứng và cũng không thể gọi ứng cứu, nên phần lớn bị tiêu diệt tại chỗ.Trung đoàn 207 làm chủ trận địa đến tối ngày 14-3 thì được lệnh rút về kinh Phèn.
Cùng thời điểm này các đơn vị chủ lực Quân khu mở rộng địa bàn trên các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ An phối hợp với thế trận chiến tranh nhân dân buộc địch phải sử dụng lực lượng cơ động bảo vệ phòng thủ các điểm trọng yếu ven thị trấn, thị xã và lộ 4, từ đây Yếu khu Ngã Sáu hoàn toàn được giải phóng.
Kết quả, qua 4 ngày chiến đấu, ta đánh thiệt hại nặng nề Tiểu đoàn bảo an 450 và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 ngụy, đánh tiêu hao Tiểu đoàn 453, loại khỏi vòng chiến đấu 653 tên, trong đó diệt 285 tên, làm bị thương 313 tên, bắt 55 tên. Ta thu và phát hủy toàn bộ vũ khí trang bị gồm: 2 pháo 105 ly; 4DKZ; 2 khẩu 12 ly 7; 10 đại liên; 3 cối 81 ly; 8 cối 60 ly; 25 M 79; 217 súng AR 15; 37 máy PRC 25; 4 tấn đạn các loại và nhiều đồ dùng quân trang, quân dụng khác. Ta san bằng toàn bộ yếu khu, quá trình tiến công ta phá hủy một kho đạn và lương thực.
Phía ta hy sinh và bị thương 128 đ/c. Tiêu diệt địch ở Ngã Sáu, các Trung đoàn 24, 207 và 320 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của BTL Quân khu giao, thực hiện tốt trận đánh then chốt, mở màn đợt 2 chiến dịch, thúc đẩy chiến dịch phát triển thuận lợi, tạo ra một thế mới cho toàn quân khu trong tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975, phối hợp nhịp nhàng với chiến dịch Tây Nguyên và toàn miền Nam.
Sau thắng lợi này, lực lượng vũ trang và nhân dân các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo… đẩy mạnh tiến công quân sự binh vận, nhổ hàng loạt đồn bót, mở mảng, chuyển vùng thuận lợi hơn, góp phần giải phóng quê hương trong tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Từ kinh nghiệm thực tiễn và được sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh (BTL) Miền, Quân khu chủ trương chuyển bộ đội chủ lực Quân khu về tiến công mở màn chiến dịch tổng hợp đợt 2 là vùng Bắc Cái Bè. Với quyết tâm phải giành được thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên chiến trường Quân khu, vì thế BTL Quân khu sau khi thảo luận và đi đến nhất trí: Nếu giải phóng Vùng 4 Kiến Tường cũng không nhất thiết phải tập trung lực lượng như đợt 1, mà lần này địa bàn chiến dịch được mở ở huyện Cái Bè (Mỹ Tho) và Mỹ An ( Sa Đéc). Trong đó yếu khu Ngã Sáu là mục tiêu then chốt.
Tượng đài ở khu di tích chiến thắng Ngã Sáu - Bằng Lăng. Ảnh: Phùng Long |
Ngoài trung đội pháo 105 ly, địch còn nhiều hỏa lực khác như 4 DKZ; khẩu 12 ly 7; 4 đại liên;2 cối 81 ly và 4 cối 60 ly; trung liên; khẩu M 79…Các căn cứ đồn bót có liên quan gồm: Chi khu Mỹ An, Chi khu Giáo Đức, Phân chi khu Thiên Hộ, Phân chi khu Thanh Mỹ…
Về phía ta, việc sử dụng lực lượng được BTL Quân khu quyết định giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 24 đánh vào mục tiêu chủ yếu, Trung đoàn 320 chặn viện từ hướng Đông, Trung đoàn 207 được Miền tăng cường đứng chân trên hướng Bắc yếu khu làm nhiệm vụ chặn viện, nếu chúng hành quân bằng tàu từ Hậu Mỹ Bắc xuống.
Trung đoàn 24 sau một thời gian chuẩn bị, đêm 10 - 3, đội hình Trung đoàn đến khu vực tập kết cuối cùng bờ nam Kinh 28, trên hướng chặn viện, đêm 9 rạng 10-3, từ Vùng 4 Kiến Tường,Trung đoàn 320 hành quân về trục kinh Bằng Lăng và về Cái Sơn (Mỹ Thiện).
Trung đoàn 207 cũng đưa đội hình Tiểu đoàn 2 vào chiếm lĩnh trận địa phía đông Kinh Nguyễn Văn Tiếp B đúng vị trí quy định. Đến 4 giờ 30 phút tất cả đều sẵn sàng nổ súng, liên lạc giữa Sở chỉ huy Trung đoàn với Quân khu thông suốt, BTL điện động viên chúc mừng thắng lợi bước đầu của tập thể Trung đoàn 24.
Đúng 5 giờ ngày 11-3, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 ra lệnh tiến công, lập tức các mũi đánh theo hiệp đồng, toàn bộ căn cứ bị rung chuyển và trùm lên một màn khói đen dày đặc, trên hướng tiến công của Đại đội 6 (Tiểu đoàn 5), lô cốt số 1 bị phá sập và 1 tổ của Đại đội 6 đã nhanh chóng chiếm lô cốt 1, lúc này địch phát hiện hướng tiến công của ta chúng đối phó kịp thời, chúng dùng các loại cối bắn chặn đội hình tiến công của ta ngay sát mé bờ kinh 28.
Về phía ta, hỏa lực các loại lúc này phát huy kém tác dụng, riêng ở hướng Đại đội 6 có thuận lợi hơn, 1 tổ của Đại đội 6 chiến đấu rất kiên cường, đánh bại nhiều lần phản kích của địch để giữ vững lô cốt đầu cầu tạo điều kiện phía sau đánh chiếm.
Hơn 10 phút chiến đấu 1 tổ thọc sâu đã chiếm được trận địa pháo, địch dùng hỏa lực ngăn chặn các mũi tiến công của Đại đội 6 rất quyết liệt, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng mục tiêu, nhiều lần địch phản kích nhưng đều bị chặn đứng. Lúc này quân số địch bị thương vong khá nhiều, không đủ sức phản kích để lấy lại trận địa đã mất.
Hướng Đại đội 8, vừa xung phong ra khỏi vị trí xuất phát tiến công thì bị 2 quả pháo bắn trúng đội hình, hỏa lực ở Phân chi khu Thanh Mỹ phí Tây Ngã Sáu bắn lướt sườn, do đó Đại đội 8 phải dừng lại để củng cố công sự. Cùng thời gian này Đại đội 3, Tiểu đoàn 4 đã tiêu diệt được 2 chốt bảo vệ từ xa trên hướng đông của yếu khu.
Trên hướng thứ yếu, Đại đội 1, Tiểu đoàn 4 cũng đánh chiếm lô cốt đầu cầu số 4, lực lượng địch còn lại co cúm khu chỉ huy và bờ thành phía tây đánh phản kích. Khoảng 6 giờ, kho đạn pháo của địch bị trúng đạn, nổ đến 7giờ 30 phút mới ngưng.
Lúc này hai hướng tiến công của ta tiếp tục phát triển đánh chiếm từng lô cốt, từng hầm ngầm, ta và địch giằng co nhau quyết liệt. Lúc này pháo binh địch các nơi bắn yểm trợ cho yếu khu bắt đầu thưa dần và bắt đầu chuyển làn về hướng bắc và hướng đông cách Ngã Sáu hơn 500m, khả năng chúng sẽ dọn đường cho quân đổ bộ.
Đúng như dự đoán của ta, khoảng 8 giờ 30 phút, ta phát hiện Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 10 của Sư đoàn 7 ngụy đã có mặt tại Cống Trâu, đến 9 giờ một tốp địch đi thẳng vào chính diện Đại đội 7, Tiểu đoàn 2, chúng đi cặp theo kinh Chín Viết, cách Bằng Lăng 1.500m. Đến 9 giờ 30 phút ta phát hiện khoảng 1 Đại đội địch chia làm 2 mũi, 1 mũi đi thằng vào đội hình Đại đội 6, mũi 2 thọc qua phía bắc 5 bụi tre, còn cách bộ phận chặn đầu Đại đội 5 khoảng 1.500 m.
Như vậy địch đã vào đúng phương án của ta. Để bảo đảm hợp vây diệt địch, Ban chỉ huy Trung đoàn 320 cho Đại đội 9, Tiểu đoàn 3 và bộ phận khóa đuôi Tiểu đoàn 1 ở xa vận động trước, còn Tiểu đoàn 2 vẫn phục kích tại chỗ.
Đến 10 giờ khoảng 1 đại đội địch lại vào chính diện Đại đội 5 và Đại đội 7, còn cách chừng 600m thì chúng dừng lại nấu cơm, có 1 mũi khác cắt chéo về hướng kinh Mới, đại bộ phận phía sau của địch đi vào hướng Tiểu đoàn 2. Lúc 10 giờ 10 phút, qua tin kỹ thuật địch báo là đã phát hiện ta ở kinh Bằng Lăng rất nhiều.
Ban chỉ huy Trung đoàn 320 nhận định: Quân đổ bộ đang nằm tại chỗ chờ pháo dọn đường, lực lượng hành quân bộ đại bộ phận quân địch lọt vào trận địa theo đúng phương án, địch có phát hiện được ta, có đề phòng cảnh giác hơn nhưng chúng chưa phát hiện được ý định của ta phục kích bao vây; ta vẫn giữ được yếu tố bí mật, đang hình thành thế bao vây quân địch. Trên cơ sở đó Ban chỉ huy Trung đoản 320 quyết tâm cơ động lực lượng ta bí mật hình thành thế bao vây và đồng loạt nổ súng xung phong theo phương án.
Với sự phối hợp nhịp nhàng, Trung đoàn 320 đã đánh ngăn chặn và tiêu diệt được lực lượng trên cánh đồng Bằng Lăng. Được tin chiến thắng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 thông báo kịp thời tình hình xuống các đơn vị thuộc quyền và động viên quyết tâm phải tiêu diệt gọn số địch còn lại đang cố thủ trong yếu khu, nhất định quân viện không đến được.
Tin chiến thắng của Trung đoàn 320 đã cổ vũ tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24. Đến 15 giờ, 2 mũi tiến công của Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 bắt tay nhau từng bước dồn địch thu hẹp lại bằng lối đánh gần, đánh chắc, giành giật với địch từng đoạn hào, từng lô cốt; thế của ta càng mạnh hơn, súng đạn của địch ta thu được dùng đủ các loại đánh rất hiệu quả.
Đến 17 giờ, địch chỉ còn lại khu chỉ huy và 3 lô cốt ( 8,9,10), Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 4 tập trung lực lượng đột phá mạnh vào khu chỉ huy của địch.Tuy cố chống cự nhưng trước sức tiến công của ta, số thương vong của địch càng lớn, chúng kêu pháo binh chi viện yểm trợ.
Đến 17 giờ 30 phút địch rút chạy về hướng tây vượt kinh Nguyễn Văn Tiếp. Như vậy sau nhiều đợt xung phong vào mục tiêu cuối cùng ta đã hoàn toàn làm chủ yếu khu Ngã Sáu lúc 18 giờ ngày 11-3. Cùng thời gian này bọn địch ở Phân chi khu Thanh Mỹ cũng bỏ chạy.
Sau khi làm chủ trận địa, Đại đội 13, Tiểu đoàn 6, được giao lệnh vào yếu khu làm nhiệm vụ chốt sẵn sàng đánh địch bảo vệ cho Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 thu dọn chiến trường. Đến 23 giờ ngày 11-3, đội hình Trung đoàn 24 lại về khu vực xuất phát (gần ngã tư kinh Bằng Lăng - kinh 28) củng cố lực lượng, bổ sung vũ khí trang bị, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Rạng sáng 12-3, Đại đội 13, Tiểu đoàn 6 cũng được lệnh rời khỏi yếu khu Ngã Sáu.
Trưa 12-3, địch sử dụng tiểu đoàn 3, Trung đoàn 11 chiếm lại yếu khu Ngã sáu. Quân khu quyết định sử dụng Trung đoàn 207, tiếp tục tiến công giải phóng căn cứ Ngã Sáu lần 2.
Sáng 13-3, cán bộ Trung đoàn 207 cùng cán bộ Tiểu đoàn 1 và các đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 đi trước nghiên cứu nắm tình hình địch và tình hình địa hình, các lực lượng còn lại sẽ hành quân tiếp sau đó.
Để thực hiện yêu cầu của Quân khu là phải giải quyết nhanh trận đánh, Trung đoàn chọn phương án lợi dụng yếu tố bất ngờ, đưa lực lượng thọc sâu vào trung tâm căn cứ, đánh gần, đánh nhanh tiêu diệt địch. Tiểu đoàn với 75 tay súng và Trung đội trinh sát của Quân khu tăng cường làm lực lượng tiến công chủ yếu. Hướng tiến công từ bắc kinh Nguyễn Văn Tiếp B vào thẳng căn cứ địch.
Diễn biến trận đánh: 20 giờ, ngày 13 -3, Tổ trinh sát do đ/c Ruộng ( Quân khu tăng cường) cùng 2 trinh sát Tiểu đoàn 1 vượt kinh Nguyễn Văn Tiếp B bí mật tiếp cận chốt tiền tiêu phía bắc căn cứ bắt 3 tên lính giao cho Trung đoàn khai thác, qua khai thác và động viên 3 tên này cho biết hệ thống bố phòng bên trong khu căn cứ, và đồng ý dẫn lực lượng ta vào bên trong đánh địch.
Đến khoảng 22 giờ, toàn bộ lực lượng Tiểu đoàn 1 đã vượt qua khỏi chốt gác và áp sát hàng rào cuối cùng của căn cứ, được lệnh tiến công các mũi nhanh chóng tiếp cận các mục tiêu, dùng lựu đạn và tiểu liên diệt địch trong căn cứ. Do bất ngờ, địch không kịp phản ứng và cũng không thể gọi ứng cứu, nên phần lớn bị tiêu diệt tại chỗ.Trung đoàn 207 làm chủ trận địa đến tối ngày 14-3 thì được lệnh rút về kinh Phèn.
Cùng thời điểm này các đơn vị chủ lực Quân khu mở rộng địa bàn trên các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ An phối hợp với thế trận chiến tranh nhân dân buộc địch phải sử dụng lực lượng cơ động bảo vệ phòng thủ các điểm trọng yếu ven thị trấn, thị xã và lộ 4, từ đây Yếu khu Ngã Sáu hoàn toàn được giải phóng.
Kết quả, qua 4 ngày chiến đấu, ta đánh thiệt hại nặng nề Tiểu đoàn bảo an 450 và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 ngụy, đánh tiêu hao Tiểu đoàn 453, loại khỏi vòng chiến đấu 653 tên, trong đó diệt 285 tên, làm bị thương 313 tên, bắt 55 tên. Ta thu và phát hủy toàn bộ vũ khí trang bị gồm: 2 pháo 105 ly; 4DKZ; 2 khẩu 12 ly 7; 10 đại liên; 3 cối 81 ly; 8 cối 60 ly; 25 M 79; 217 súng AR 15; 37 máy PRC 25; 4 tấn đạn các loại và nhiều đồ dùng quân trang, quân dụng khác. Ta san bằng toàn bộ yếu khu, quá trình tiến công ta phá hủy một kho đạn và lương thực.
Phía ta hy sinh và bị thương 128 đ/c. Tiêu diệt địch ở Ngã Sáu, các Trung đoàn 24, 207 và 320 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của BTL Quân khu giao, thực hiện tốt trận đánh then chốt, mở màn đợt 2 chiến dịch, thúc đẩy chiến dịch phát triển thuận lợi, tạo ra một thế mới cho toàn quân khu trong tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975, phối hợp nhịp nhàng với chiến dịch Tây Nguyên và toàn miền Nam.
Sau thắng lợi này, lực lượng vũ trang và nhân dân các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo… đẩy mạnh tiến công quân sự binh vận, nhổ hàng loạt đồn bót, mở mảng, chuyển vùng thuận lợi hơn, góp phần giải phóng quê hương trong tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
TẤN ĐỜI
Nguồn:
- Đia chí Tiền Giang q.2,
- Những trận đánh của LLVTND Tiền Giang tập 5 NXB QĐND 2008,
- Trung đoàn 24 - 1966 -1979 NXB QĐND 2000.
- Đia chí Tiền Giang q.2,
- Những trận đánh của LLVTND Tiền Giang tập 5 NXB QĐND 2008,
- Trung đoàn 24 - 1966 -1979 NXB QĐND 2000.
Labels:
sư đoàn 7,
tiểu đoàn 2/10,
tiểu đoàn 3/11,
trận ngả sáu
t rằng mấy TĐ quân CSBV đang chờ ở phía trước và phía phải của hướng tiến quân . Theo thông lệ , TĐ chia làm ba mủi : mủi ở giửa gồm 1 đ.đ. , kế đó là đ.đ. chỉ huy , sau đó 1 đ.đ. khác bọc hâu . Một đ.đ. ở cánh trái và 1 đ.đ. khác ở cánh phải . Ông TĐT quá chủ quan nên nói với tôi "hôm nay tụi mình đi picnic ! " . Khi gần tới bờ kinh thứ hai đầy cây cối rậm rập (mọc theo bờ kinh) , TĐ đã bị tấn công chính diện bởi đủ loại súng , đặc biệt là cối 81 ly và sau đó là đại liên 12.8 ly . Khi bị bắn sát rạt với 12,8 ly , tôi biết rằng quân CSBV sẽ chuẩn bị xung phong nên vẫn cố gắng quan sát xung quanh : thật ko sai , quân CS từ phía phải của TĐ xuất hiện hàng hàng lớp lớp lao về phía chúng tôi ; đai đội bên phải vì ko có địa thế ẩn núp để chống trả nên đã chạy về phía bên trái . Thế là đ.đ. chỉ huy ở ngay tuyến đầu . Chúng tôi từ từ rút về bên trái , vượt qua các nương nước ko sâu lắm . Cũng may cho chúng tôi , CS chỉ có quân ở phía trước và bên phải nên chúng tôi còn sinh lộ .
Dựa vào các mương nước , chúng tôi đã chống trả các đợt xung phong ồ ạt : máy bay A-37 và pháo binh đã yểm trợ hết sức . Tôi nhớ , các thương binh CS đã lết vào phòng tuyến và năn nỉ "các ông cho con đi theo" . Tôi nói , lính tao còn lo ko nỗi , huống gì bọn bây .
Dựa vào các mương nước , chúng tôi đã chống trả các đợt xung phong ồ ạt : máy bay A-37 và pháo binh đã yểm trợ hết sức . Tôi nhớ , các thương binh CS đã lết vào phòng tuyến và năn nỉ "các ông cho con đi theo" . Tôi nói , lính tao còn lo ko nỗi , huống gì bọn bây .
Monday, July 17, 2017
CỘNG ĐỒNG VN Ở OKLAHOMA CITY , BANG OKLAHOMA .
- Một BS VNCH tị nạn năm 1980 tại TP này , chỉ trong 20 năm , ông đã có 4 con và 1 con rể học y khoa .
Chú thích : nguyên bản ko có dấu , tôi đã thêm dấu tiếng Việt một cách hợp lý nhứt .
Dịch từ : National Geographic tháng 3 2003 .
Zip code 73106
Dân số : 13.500
Số ng Việt tị nạn tại Oklahoma City vào năm 1975 : 2.000 , con số của năm 2002 : 12.000
Xếp hạng 19 trong số các TP có nhiều ng Việt tại Mỹ , đầu bảng là Little Saigon tại Nam Cali .
Một cảm giác siêu thực cuốn xoáy (swirl up) như bụi của đồng bằng khi bạn lái xuyên qua Oklahoma City và dừng lại (pull up) ở giao lộ bằng phẳng , trải dài (sprawling) của đường 23 và đại lộ Classen . Ngay trước là một mái vòm trắc địa học (geodesic dome) màu vàng , hình dưới , được xây bởi 1 ngân hàng địa phương năm 1958 .
Bên kia đường , bên trên nhà nhỏ 1 tầng hình thang là 1 bình sữa trắng lớn cao 15-foot, (trang trí với mũ kem màu hồng/pink ice-cream cone) .
Sau đó 2 block đường là nhà thờ kiểu Gô-tích với những cửa sổ kính màu lớn (enormousstained-glass window) bao bọc bởi đá xám chạm trổ (carved gray stone) . Bạn ko nghĩ đây chính là nơi bạn sẽ tìm thấy một cộng đồng VN phát đạt (thriving) , mà ng địa phương gọi là Little Saigon , với mùi thơm của sả (lemongrass) , tỏi , và tương ớt (hot chilli paste) thoát đi từ 1 chuỗi những cửa hàng lộng lẫy (garish string of strip malls) . Chỉ cách 10 phút xe chạy từ giao lộ này , đây là quả tim của Little Saigon , bạn có thể dễ dàng đi bộ tới 5 nhà hàng chuyên về phở (món ăn làm từ nước súp bò) , hai siêu thị Á châu , và tiệm cà phê thịt nướng TQ (Chinese barbecue café) .
Buổi trưa mà bà Loan Nguyễn tới Oklahoma City vào tháng 8/1980 vẫn mới như hôm qua . Rời 1 trại tị nạn ở Thái lan , bà Loan , ông Thương (chồng) và 4 con bước trên các bậc thang thép để xuống đường băng nóng cháy da (roasting tarmac) của sân bay Will Rogers World Airport (đây là phi trường chánh của Oklahoma Cty vào thời đó -- Tài) : "Trời hôm đó rất nóng," bà nhớ lại , "giống như đi vào bếp lò ." Ông Thương là một bác sĩ mổ xương tại VN , và trong hai năm ông đã tự học tiếng Anh để có thể thi lấy lại bằng cấp và đã trải qua tái huấn luyện để thành bs gia đình . Còn bà tìm thấy 1 công việc ở hảng Coca-Cola , qua việc bán nước giải khát cho các cửa hàng tiện dụng của dân Á châu (như 7-Eleven) . Trong vòng 20 năm , họ đã đưa 4/6 các con của họ , và một con rể , vào trường y .
Cô Thúy , một phụ nữ trẻ lịch sự , hăng hái (feisty) , là con cả trong 4 con làm bác sĩ của bà . "Trong gia đình chúng tôi bạn phải trở thành bs nếu không. . . " cô ta nói , nghỉ 1 chốc trước khi khám bịnh tiếp tại VP của cô chỉ cách VP của ba cô trên đường 23 có 1/2 mile . Khi ở trung học , cô và 3 người em đã được điểm A liên tục (earning straight A's) ; để họ tập trung làm bài tập , cha mẹ chỉ cho mở TV 1 giờ mỗi tối . Để bảo đảm kỷ luật , ông Thương đã để TV này vào 1 thùng bằng gỗ dán (plywood) để sau khi các con xem đúng 1 giờ , ông thể khóa thùng lại (sic) . Ông Thương và bà Loan vẫn sống trong căn nhà gạch 1 tầng mà họ mua bằng tiền mặt 17 năm trước , chỉ cách căn nhà gần giống như vậy , mà ông dùng làm VP , hai căn . Cô Thúy sống trong 1 căn nhà ngoại ô cao cấp (upscale suburban house) cách đó 1/2 giờ .
"Tôi ko muốn sống trong 1 căn nhà cũ , nhỏ," cô Thúy nói ."Tôi đang sống giấc mơ Mỹ. Chúng tôi đã lớn lên trong nghèo khổ . Chúng tôi muốn đi lên trong xã hội."
Sự căng thẳng giửa giử gìn truyền thống và lời tán dương/ca tụng (blandishment) của giấc mơ Mỹ ì-xèo (sizzle) khắp Little Saigon . Ghé ngang tiệm cà phê Hợp Ký hầu như mỗi buổi sáng vào khoảng 10 g , nếu bạn nói được tiếng Việt , bạn có thể nghe ông Sự Nguyễn chuyện trò với các cựu chiến hửu (old military buddy) về các cháu (nội/ngoại) của họ và những lỗi lầm khiến thua trận . Một lá cờ lớn VNCH treo trên tường , những lá nhỏ hơn bay bên ngoài , và 1 lá nằm bên cạnh cờ Mỹ bên trên 1 tủ cũ chứa lòng heo , vịt quay , và bánh bao (stuffed bun) .
Ba CCB trong tuổi 60 uống trà với ông Sự . Họ , cũng như ông , đi tù vài năm sau khi Saigon sụp đổ ; vài ng đã ở nhiều năm trong trại tị nạn .
"Họ đến đây mỗi sáng : vài ng đã nghỉ hưu , ng khác làm ca đêm." Đây là chỗ tốt để nói chuyện và nhớ," ông Sự nói thông qua ng thông dịch của tôi , Khánh Tăng , một sĩ quan CS trẻ Mỹ gốc Việt . Ông đã đến Oklahoma City trong đợt sóng thứ nhì của ng tị nạn vào năm 1991 . Phần lớn ng đang sống tại Little Saigon đã đến cùng lúc đó . Làn sóng thứ nhứt , đã đến đây do các cơ quan tỵ nạn của Thiên Chúa giáo trong thập niên 1970 và 1980 , đã chuyển ra ngoại ô . "Ng giàu dọn ra ngoài và ng nghèo ở lại thành phố,"Tăng nói .
Hai ngày sau đó , Tăng dùng xe đi tuần , chạy chậm dọc theo những vĩa hè nhỏ của Little Saigon , với những nhà gỗ 1 tầng kế nhau . Ông rọi đèn vào sân , phần lớn gọn ghẻ , có chỗ toàn rác rưởi .
"Tôi ko muốn nuôi con trai của tôi ở đây khi đầy những mua bán ma túy , đĩ điếm , nổ súng," Tăng nói , ngụ ý về một khu xóm xơ xác gần đó (seedy neighborhood nearly) . Dù cho kế đó là những dặm vuông sang trọng nhứt (most exclusive square mile) tại Oklahoma . Khả năng của tình trạng bất an ninh ở Little Saigon đã khiến các nhà lãnh đạo cộng đồng thành lập các cơ sở phục vụ dân sinh (civic institution) . Khi mái vòm màu vàng sắp bị ủi sập , 1 ủy ban của các dân Oklahoma sống lâu năm đã tung ra chiến dịch "cứu mái vòm" .
Cố gắng của họ có vẻ vô vọng cho tới khi bà Irene Lâm , 1 trong những ng Tàu tại TP này , đã đề nghị mua lại để lập một trung tâm văn hóa Á châu .
"Ng Á châu luôn luôn tìm kiếm 1 không gian công cộng để có các buổi họp mặt (meeting) cộng đồng , và hiện ko có 1 trung tâm ở đây," bà nói , trong khi dẫn tôi thăm tòa nhà này . "Giờ đây chúng tôi có thể triển lảm (display) văn hóa , âm nhạc , khiêu vũ , vì có nhiều chỗ trống ở đây."
Một nữ doanh nhân thông minh (shrewd) , bà Lâm đã nhanh chóng tụ họp đủ các doanh nghiệp bán lẻ - mà tiền thuê sẽ dễ dàng giúp bà trả hết giá bán 1.1 triệu của tòa nhà này . Bà cũng hiểu giá trị về văn hóa và kinh tế khi giử được biểu tượng này của đời sống tại Oklahoma :" Chúng ta có thể nói đó là cách mà dân Á châu trả ơn cho TP này về những may mắn mà TP đã tạo ra cho chúng ta."
Trả ơn . Giử lại . Đi chỗ khác . Đây là những vấn đề củ rích của di dân tại mỹ . Một phần của hấp dẫn của TP này là tỉ lệ/quy mô (scale) của nó . Quận Cam , Cali , nơi mà làn sóng tị nạn tới sau khi Saigon sụp đổ , bây giờ là nơi chốn của 135.000 ng Việt , gần bằng số người đang sống tại San Jose và phụ cận . Giá nhà (housing price) tại hai nơi này cao và căng thẳng đô thị thì trầm trọng hơn . Tuy nhiên , sự trải rộng của TP này đã khiến khiến (cast) gia đình và bạn bè tách xa . Bà Loan Nguyễn đã thấy ba con lớn tuổi của bà dọn đi , đây là điều ko thể tưởng tượng ở VN . Các con của họ khuyên (badger) rời bỏ Little Saigon , về với chúng ở khu ngoại ô để xa lánh "tội phạm," , nhưng họ ko đồng ý .
"Theo tôi tội phạm có thể xảy ra mọi nơi," bà Loan nói . "Chẳng bao lâu chúng tôi sẽ quá già yếu , và các con ko ở với chúng tôi. Khi chúng tôi cô đơn , rất tiện để đi bộ đến cửa hàng VN. Thật rất thuận lợi khi sống ở đây." Hết .
Xong vào tối ngày 16/7/17 với nhiệt độ cao nhứt là 97 độ F .
- Một BS VNCH tị nạn năm 1980 tại TP này , chỉ trong 20 năm , ông đã có 4 con và 1 con rể học y khoa .
Chú thích : nguyên bản ko có dấu , tôi đã thêm dấu tiếng Việt một cách hợp lý nhứt .
Dịch từ : National Geographic tháng 3 2003 .
Zip code 73106
Dân số : 13.500
Số ng Việt tị nạn tại Oklahoma City vào năm 1975 : 2.000 , con số của năm 2002 : 12.000
Xếp hạng 19 trong số các TP có nhiều ng Việt tại Mỹ , đầu bảng là Little Saigon tại Nam Cali .
Một cảm giác siêu thực cuốn xoáy (swirl up) như bụi của đồng bằng khi bạn lái xuyên qua Oklahoma City và dừng lại (pull up) ở giao lộ bằng phẳng , trải dài (sprawling) của đường 23 và đại lộ Classen . Ngay trước là một mái vòm trắc địa học (geodesic dome) màu vàng , hình dưới , được xây bởi 1 ngân hàng địa phương năm 1958 .
Bên kia đường , bên trên nhà nhỏ 1 tầng hình thang là 1 bình sữa trắng lớn cao 15-foot, (trang trí với mũ kem màu hồng/pink ice-cream cone) .
Sau đó 2 block đường là nhà thờ kiểu Gô-tích với những cửa sổ kính màu lớn (enormousstained-glass window) bao bọc bởi đá xám chạm trổ (carved gray stone) . Bạn ko nghĩ đây chính là nơi bạn sẽ tìm thấy một cộng đồng VN phát đạt (thriving) , mà ng địa phương gọi là Little Saigon , với mùi thơm của sả (lemongrass) , tỏi , và tương ớt (hot chilli paste) thoát đi từ 1 chuỗi những cửa hàng lộng lẫy (garish string of strip malls) . Chỉ cách 10 phút xe chạy từ giao lộ này , đây là quả tim của Little Saigon , bạn có thể dễ dàng đi bộ tới 5 nhà hàng chuyên về phở (món ăn làm từ nước súp bò) , hai siêu thị Á châu , và tiệm cà phê thịt nướng TQ (Chinese barbecue café) .
Buổi trưa mà bà Loan Nguyễn tới Oklahoma City vào tháng 8/1980 vẫn mới như hôm qua . Rời 1 trại tị nạn ở Thái lan , bà Loan , ông Thương (chồng) và 4 con bước trên các bậc thang thép để xuống đường băng nóng cháy da (roasting tarmac) của sân bay Will Rogers World Airport (đây là phi trường chánh của Oklahoma Cty vào thời đó -- Tài) : "Trời hôm đó rất nóng," bà nhớ lại , "giống như đi vào bếp lò ." Ông Thương là một bác sĩ mổ xương tại VN , và trong hai năm ông đã tự học tiếng Anh để có thể thi lấy lại bằng cấp và đã trải qua tái huấn luyện để thành bs gia đình . Còn bà tìm thấy 1 công việc ở hảng Coca-Cola , qua việc bán nước giải khát cho các cửa hàng tiện dụng của dân Á châu (như 7-Eleven) . Trong vòng 20 năm , họ đã đưa 4/6 các con của họ , và một con rể , vào trường y .
Cô Thúy , một phụ nữ trẻ lịch sự , hăng hái (feisty) , là con cả trong 4 con làm bác sĩ của bà . "Trong gia đình chúng tôi bạn phải trở thành bs nếu không. . . " cô ta nói , nghỉ 1 chốc trước khi khám bịnh tiếp tại VP của cô chỉ cách VP của ba cô trên đường 23 có 1/2 mile . Khi ở trung học , cô và 3 người em đã được điểm A liên tục (earning straight A's) ; để họ tập trung làm bài tập , cha mẹ chỉ cho mở TV 1 giờ mỗi tối . Để bảo đảm kỷ luật , ông Thương đã để TV này vào 1 thùng bằng gỗ dán (plywood) để sau khi các con xem đúng 1 giờ , ông thể khóa thùng lại (sic) . Ông Thương và bà Loan vẫn sống trong căn nhà gạch 1 tầng mà họ mua bằng tiền mặt 17 năm trước , chỉ cách căn nhà gần giống như vậy , mà ông dùng làm VP , hai căn . Cô Thúy sống trong 1 căn nhà ngoại ô cao cấp (upscale suburban house) cách đó 1/2 giờ .
"Tôi ko muốn sống trong 1 căn nhà cũ , nhỏ," cô Thúy nói ."Tôi đang sống giấc mơ Mỹ. Chúng tôi đã lớn lên trong nghèo khổ . Chúng tôi muốn đi lên trong xã hội."
Sự căng thẳng giửa giử gìn truyền thống và lời tán dương/ca tụng (blandishment) của giấc mơ Mỹ ì-xèo (sizzle) khắp Little Saigon . Ghé ngang tiệm cà phê Hợp Ký hầu như mỗi buổi sáng vào khoảng 10 g , nếu bạn nói được tiếng Việt , bạn có thể nghe ông Sự Nguyễn chuyện trò với các cựu chiến hửu (old military buddy) về các cháu (nội/ngoại) của họ và những lỗi lầm khiến thua trận . Một lá cờ lớn VNCH treo trên tường , những lá nhỏ hơn bay bên ngoài , và 1 lá nằm bên cạnh cờ Mỹ bên trên 1 tủ cũ chứa lòng heo , vịt quay , và bánh bao (stuffed bun) .
Ba CCB trong tuổi 60 uống trà với ông Sự . Họ , cũng như ông , đi tù vài năm sau khi Saigon sụp đổ ; vài ng đã ở nhiều năm trong trại tị nạn .
"Họ đến đây mỗi sáng : vài ng đã nghỉ hưu , ng khác làm ca đêm." Đây là chỗ tốt để nói chuyện và nhớ," ông Sự nói thông qua ng thông dịch của tôi , Khánh Tăng , một sĩ quan CS trẻ Mỹ gốc Việt . Ông đã đến Oklahoma City trong đợt sóng thứ nhì của ng tị nạn vào năm 1991 . Phần lớn ng đang sống tại Little Saigon đã đến cùng lúc đó . Làn sóng thứ nhứt , đã đến đây do các cơ quan tỵ nạn của Thiên Chúa giáo trong thập niên 1970 và 1980 , đã chuyển ra ngoại ô . "Ng giàu dọn ra ngoài và ng nghèo ở lại thành phố,"Tăng nói .
Hai ngày sau đó , Tăng dùng xe đi tuần , chạy chậm dọc theo những vĩa hè nhỏ của Little Saigon , với những nhà gỗ 1 tầng kế nhau . Ông rọi đèn vào sân , phần lớn gọn ghẻ , có chỗ toàn rác rưởi .
"Tôi ko muốn nuôi con trai của tôi ở đây khi đầy những mua bán ma túy , đĩ điếm , nổ súng," Tăng nói , ngụ ý về một khu xóm xơ xác gần đó (seedy neighborhood nearly) . Dù cho kế đó là những dặm vuông sang trọng nhứt (most exclusive square mile) tại Oklahoma . Khả năng của tình trạng bất an ninh ở Little Saigon đã khiến các nhà lãnh đạo cộng đồng thành lập các cơ sở phục vụ dân sinh (civic institution) . Khi mái vòm màu vàng sắp bị ủi sập , 1 ủy ban của các dân Oklahoma sống lâu năm đã tung ra chiến dịch "cứu mái vòm" .
Cố gắng của họ có vẻ vô vọng cho tới khi bà Irene Lâm , 1 trong những ng Tàu tại TP này , đã đề nghị mua lại để lập một trung tâm văn hóa Á châu .
"Ng Á châu luôn luôn tìm kiếm 1 không gian công cộng để có các buổi họp mặt (meeting) cộng đồng , và hiện ko có 1 trung tâm ở đây," bà nói , trong khi dẫn tôi thăm tòa nhà này . "Giờ đây chúng tôi có thể triển lảm (display) văn hóa , âm nhạc , khiêu vũ , vì có nhiều chỗ trống ở đây."
Một nữ doanh nhân thông minh (shrewd) , bà Lâm đã nhanh chóng tụ họp đủ các doanh nghiệp bán lẻ - mà tiền thuê sẽ dễ dàng giúp bà trả hết giá bán 1.1 triệu của tòa nhà này . Bà cũng hiểu giá trị về văn hóa và kinh tế khi giử được biểu tượng này của đời sống tại Oklahoma :" Chúng ta có thể nói đó là cách mà dân Á châu trả ơn cho TP này về những may mắn mà TP đã tạo ra cho chúng ta."
Trả ơn . Giử lại . Đi chỗ khác . Đây là những vấn đề củ rích của di dân tại mỹ . Một phần của hấp dẫn của TP này là tỉ lệ/quy mô (scale) của nó . Quận Cam , Cali , nơi mà làn sóng tị nạn tới sau khi Saigon sụp đổ , bây giờ là nơi chốn của 135.000 ng Việt , gần bằng số người đang sống tại San Jose và phụ cận . Giá nhà (housing price) tại hai nơi này cao và căng thẳng đô thị thì trầm trọng hơn . Tuy nhiên , sự trải rộng của TP này đã khiến khiến (cast) gia đình và bạn bè tách xa . Bà Loan Nguyễn đã thấy ba con lớn tuổi của bà dọn đi , đây là điều ko thể tưởng tượng ở VN . Các con của họ khuyên (badger) rời bỏ Little Saigon , về với chúng ở khu ngoại ô để xa lánh "tội phạm," , nhưng họ ko đồng ý .
"Theo tôi tội phạm có thể xảy ra mọi nơi," bà Loan nói . "Chẳng bao lâu chúng tôi sẽ quá già yếu , và các con ko ở với chúng tôi. Khi chúng tôi cô đơn , rất tiện để đi bộ đến cửa hàng VN. Thật rất thuận lợi khi sống ở đây." Hết .
Xong vào tối ngày 16/7/17 với nhiệt độ cao nhứt là 97 độ F .
![]() | |
ĐỦA VÀ COCA-COLA ĐỀU BÌNH ĐẲNG Ở NHÀ TẠI LITTLE SAIGON CỦA OKLAHOMA CITY . HỌC NGUYỄN , MỘT CỰU TRUNG ÚY QLVNCH , ĐÃ SỐNG SÓT TỪ CÁC TRẠI "CẢI TẠO" (REEDUCATION) CỦA MIỀN BẮC VÀ ĐÃ MANG CẢ GIA ĐÌNH SANG ĐÂY ĐỂ ĐOÀN TỤ (JOIN) VỚI BẠN BÈ VÀ BÀ CON . |
![]() |
KHÁNH TĂNG MỘT TRONG HAI CẢNH SÁT GỐC VIỆT , TUẦN TIỂU LITTLE SAIGON CỦA OKLAHOMA CITY |
![]() |
MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA CỘNG ĐỒNG , MÁI VÒM TRÒN (DOME) MÀU VÀNG THEO KẾ HOẠCH SẼ THÀNH MỘT TRUNG TÂM VĂN HÓA Á CHÂU . |
![]() |
KEVIN VÀ CHILAN NGUYỄN , ĐỨNG GIỬA , CHÀO ĐÓN KHÁCH DỰ ĐÁM CƯỚI , MẶC MÀU ĐỎ , TƯỢNG TRƯNG CHO MAY MẮN . |
![]() |
HÀ NGÔ VÀ KHÁCH PHẠM , CƯỚI NHAU HƠN 50 NĂM , DI CHUYỂN TRÊN ĐƯỜNG MÀ KO BIẾT TIẾNG ANH , HAY KO CÓ BẰNG LÁI . |
![]() |
Ở NHÀ HÀNG HỢP KÝ , NƠI MÀ THỰC ĐƠN LIỆT KÊ NHỮNG MÓN TRUYỀN THỐNG , HÌNH DƯỚI , CỰU TƯỚNG LÃNH VNCH BÊ TỪ ? (NGỒI THỨ HAI TỪ BÊN TRÁI) , NÓI CHUYỆN VỚI CÁC CỰU QUÂN NHÂN VỀ "LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIỬ GÌN PHONG TỤC VIỆT NAM." |
![]() |
MỘT VỊ SƯ CẦU NGUYỆN/PHÙ HỘ (BLESS) CHO ĐỆ TỬ LÊ THỊ MÙI , 91 T , VỚI BỐN THẾ HỆ SỐNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG KHU VỰC NÀY |
Friday, July 14, 2017
MỘT CON ÉN KHÔNG LÀM NỔI MÙA XUÂN . (bài cũ đăng lại nhưng ko mất tính thời sự) .
(Viết sau khi đọc tin chị VTPA được đài TH mời nói chuyện về CT Anh ngữ tích hợp) .
- Người CSVN nói rất giỏi và rất nhiều nhưng họ chỉ làm rất ít hay ko làm gì cả ; tôi ko muốn nhắc tới họ nữa .- Lý Quang Diệu nói về kinh nghiệm làm cố vấn cho VN .
- Cơ chế chính trị hiện nay làm hư hõng hay thui chột tài năng của con người mà điển hình là cựu BT Nguyễn thiện Nhân .
- Một đội banh ko thể thành công nếu ko có tinh thần đồng đội (team-work/tiếng Anh , en jeu/tiếng Pháp) ; cũng như vậy , 1 kế hoạch hay chánh sách muốn thành công đều phải có sự ĐỒNG BỘ (synchronization) .
- Người CSVN nói rất giỏi và rất nhiều nhưng họ chỉ làm rất ít hay ko làm gì cả ; tôi ko muốn nhắc tới họ nữa .- Lý Quang Diệu nói về kinh nghiệm làm cố vấn cho VN .
- Cơ chế chính trị hiện nay làm hư hõng hay thui chột tài năng của con người mà điển hình là cựu BT Nguyễn thiện Nhân .
- Một đội banh ko thể thành công nếu ko có tinh thần đồng đội (team-work/tiếng Anh , en jeu/tiếng Pháp) ; cũng như vậy , 1 kế hoạch hay chánh sách muốn thành công đều phải có sự ĐỒNG BỘ (synchronization) .
Bộ Giáo Dục VN hiện nay có thể được ví như một NHÀ MÁY SẢN XUẤT MÁY CÔNG CỤ . Nhà máy này , với rất nhiều KHUYẾT TẬT (đặc biệt là bằng giả, mua quan bán chức , độc quyền sách giáo khoa , ko cho các ĐH được tự trị , cho phép thày giáo dạy thêm , v.v...) thì không thể sản xuất ra những sản phẩm tốt . Cái gì BGD cũng muốn quản lý , để vòi vĩnh cấp bị quản lý phải "lại quả" . (Một người quen tôi từng mở 1 trường ĐH dân lập , phải tìm sự đở đầu của 1 ĐH tại Hà Nội , dù ông này phải tự thuê trường , kiếm giáo sư , v.v... tóm lại lo từ A-Z . Lời lỗ ko cần biết nhưng phải cống nạp đều đều cho trường mẹ ) .
Lấy vài VD khác : dù VN có hàng chục ngàn TS , PGS , v.v... nhưng có bao nhiêu bài của họ được đăng trên các nguyệt san khoa học nổi tiếng thế giới , có bao nhiêu bằng sáng chế đẵng cấp quốc tế , có bao nhiêu ĐH hay CĐ của VN được vào Top 100 các ĐH ở Á Châu .
Nếu tôi ko lầm , Chị VTPA năm 1975 được 14-15 tuổi , các năm kế được giáo dục bởi các thày giáo phần lớn của chế độ cũ - được lưu dung - và được học bổng sang Úc . Có thể kết luận , chị là sản phẩm của nền GD của chế độ cũ và Úc .
Nếu nền GD hiện nay tốt đẹp thì đã KHÔNG CÓ có nhiều tai tiếng (mới nhất là chương trình dạy tiếng Anh của Sở GD TP.HCM) và cũng KHÔNG CÓ vụ đài TH phải mời chị nói về dạy tiếng Anh tích hợp .
Tóm lại , với một nhà máy đầy khuyết tật như Bộ GD hiện nay , thật là KHÔNG TƯỞNG hay NGÂY THƠ khi hy vọng nhà máy sẽ sản xuất , với tỉ lệ RẤT CAO , những sản phẩm tốt . (Cũng có những HS giỏi do tự học , học thêm ở các trường quốc tế - do cha mẹ giàu , v.v... nhưng số này chiếm tỉ lệ rất ít) . Vì :
1/ Ngay cả Bộ GD có chương trình dạy tiếng Anh tốt nhứt nhưng nếu các môn học khác còn què quặt , ì ạch , lạc hậu , v.v... thì nền GD cũng không cho ra sản phẩm tốt . (Chưa kể việc thực hiện CT Anh ngữ này như thế nào với các thày giáo , học liệu , v.v... chưa thích ứng với CT) .
2/ Ở đời , mọi kế hoạch hay chính sách đều phải có sự ĐỒNG BỘ để đạt mục tiêu , không thể nào chỉ có một cái tiến lên nhưng những cái còn lại vẫn đứng yên tại chổ ; có nhiều KH hay chính sách thất bại chỉ vì 1 hay 2 yếu tố bị trục trặc .
3/ Chính cơ chế chính trị này đã làm HƯ HỎNG hay THUI CHỘT tài năng của con người mà điển hình là cựu BT Nguyễn Thiện Nhân . Là 1 người học tại Đông Đức (1) cùng thời với bà TT Đức Merkel (ông có TS về điều khiển học , bà về vật lý) mà bà này là TT giỏi nhứt của 1 trong 2 cường quốc của Âu châu (mấy nhiệm kỳ liên tiếp) ; còn ông Nhân làm được việc gì cho dân tộc , ngoài các CT "đầu voi đuôi chuột" và nay làm CT MTTQVN , không liên quan gì với nghành học của mình .
Tôi xin lập lại , với cơ chế chính trị hiện nay , đang lãnh đạo Bộ GD và các bộ khác (2) , chỉ có kẻ NGÂY THƠ hay KHÔNG TƯỞNG mới nghĩ rằng nó sẽ tạo ra các sản phẩm tốt cho xã hội ./.
Lấy vài VD khác : dù VN có hàng chục ngàn TS , PGS , v.v... nhưng có bao nhiêu bài của họ được đăng trên các nguyệt san khoa học nổi tiếng thế giới , có bao nhiêu bằng sáng chế đẵng cấp quốc tế , có bao nhiêu ĐH hay CĐ của VN được vào Top 100 các ĐH ở Á Châu .
Nếu tôi ko lầm , Chị VTPA năm 1975 được 14-15 tuổi , các năm kế được giáo dục bởi các thày giáo phần lớn của chế độ cũ - được lưu dung - và được học bổng sang Úc . Có thể kết luận , chị là sản phẩm của nền GD của chế độ cũ và Úc .
Nếu nền GD hiện nay tốt đẹp thì đã KHÔNG CÓ có nhiều tai tiếng (mới nhất là chương trình dạy tiếng Anh của Sở GD TP.HCM) và cũng KHÔNG CÓ vụ đài TH phải mời chị nói về dạy tiếng Anh tích hợp .
Tóm lại , với một nhà máy đầy khuyết tật như Bộ GD hiện nay , thật là KHÔNG TƯỞNG hay NGÂY THƠ khi hy vọng nhà máy sẽ sản xuất , với tỉ lệ RẤT CAO , những sản phẩm tốt . (Cũng có những HS giỏi do tự học , học thêm ở các trường quốc tế - do cha mẹ giàu , v.v... nhưng số này chiếm tỉ lệ rất ít) . Vì :
1/ Ngay cả Bộ GD có chương trình dạy tiếng Anh tốt nhứt nhưng nếu các môn học khác còn què quặt , ì ạch , lạc hậu , v.v... thì nền GD cũng không cho ra sản phẩm tốt . (Chưa kể việc thực hiện CT Anh ngữ này như thế nào với các thày giáo , học liệu , v.v... chưa thích ứng với CT) .
2/ Ở đời , mọi kế hoạch hay chính sách đều phải có sự ĐỒNG BỘ để đạt mục tiêu , không thể nào chỉ có một cái tiến lên nhưng những cái còn lại vẫn đứng yên tại chổ ; có nhiều KH hay chính sách thất bại chỉ vì 1 hay 2 yếu tố bị trục trặc .
3/ Chính cơ chế chính trị này đã làm HƯ HỎNG hay THUI CHỘT tài năng của con người mà điển hình là cựu BT Nguyễn Thiện Nhân . Là 1 người học tại Đông Đức (1) cùng thời với bà TT Đức Merkel (ông có TS về điều khiển học , bà về vật lý) mà bà này là TT giỏi nhứt của 1 trong 2 cường quốc của Âu châu (mấy nhiệm kỳ liên tiếp) ; còn ông Nhân làm được việc gì cho dân tộc , ngoài các CT "đầu voi đuôi chuột" và nay làm CT MTTQVN , không liên quan gì với nghành học của mình .
Tôi xin lập lại , với cơ chế chính trị hiện nay , đang lãnh đạo Bộ GD và các bộ khác (2) , chỉ có kẻ NGÂY THƠ hay KHÔNG TƯỞNG mới nghĩ rằng nó sẽ tạo ra các sản phẩm tốt cho xã hội ./.
(1) : Trong các nước CS Đông Âu , Đông Đức có nền KHKT rất khá vì : có truyền thống KHKT từ nhiều thế kỷ , giáp giới với Tây Đức , đa số nói được tiếng Anh vì hàng ngày nghe và xem các đài Radio và TV - đặt tại Tây Đức - dành cho quân đội Mỹ. Các BS của Đông Đức cũng ngang hàng với Tây Đức .
(2) : Theo một số người theo dõi về giáo dục VN thì nền GD của miền Bắc XHCN chỉ giử được phong độ dưới thời các BT Nguyễn văn Huyên và Tạ Quang Bữu . Sau thời 2 ông này , GD VNXHCN đi xuống tới bây giờ . Ông Huyên là một trí thức xuất sắc do Pháp đào tạo còn ông Bữu thì tiếp thu 2 nền GD từ Pháp và Anh .
Chính những trí thức do Pháp đào tạo tại Hà Nội hay tại Pháp , sau khi di cư vào Nam năm 1954 là những hạt nhân tốt cho nền GD của VNCH . Họ có sự hợp tác của 1 số trí thức từ các nguồn khác , phần lớn là Mỹ .
(2) : Theo một số người theo dõi về giáo dục VN thì nền GD của miền Bắc XHCN chỉ giử được phong độ dưới thời các BT Nguyễn văn Huyên và Tạ Quang Bữu . Sau thời 2 ông này , GD VNXHCN đi xuống tới bây giờ . Ông Huyên là một trí thức xuất sắc do Pháp đào tạo còn ông Bữu thì tiếp thu 2 nền GD từ Pháp và Anh .
Chính những trí thức do Pháp đào tạo tại Hà Nội hay tại Pháp , sau khi di cư vào Nam năm 1954 là những hạt nhân tốt cho nền GD của VNCH . Họ có sự hợp tác của 1 số trí thức từ các nguồn khác , phần lớn là Mỹ .
Labels:
angela merkel,
giáo dục việt nam,
nguyễn thiện nhân
Thursday, July 13, 2017
Sống với bịnh Alzheimer (Living with Alzheimer's Disease) .
Dịch Từ : Secrets of the gene trên National Geographic Oct 1999
Triệu chứng đầu tiên của bịnh Alzheimer đã đến với Ina Savage , 58 t , khoảng 1 thập niên trước .
Ng đàn bà đã từng tổ chức cuộc sống của gia đình bà ở Baltimore , bang Maryland đã bắt đầu quên cái gì phải mua ở tiệm tạp hóa và mang theo cái gì khi nghỉ hè . Tới năm 1996 chẫn đoán cho thấy : bà đã bị giai đoạn sớm/đầu (early-onset) của bịnh Alzheimer , một dạng xuất hiện trước 65 t và chiếm 15/100 các trường hợp . Bà Ina vẫn can đảm/hăng hái (feisty) và nói nhiều (talkative) , nhưng ko còn là người mà chồng và con hằng biết . Các con gái dẫn bà đi chợ . Mặc quần áo (dressing) là 1 thách thức . Bà ko còn nhớ các bài dạy nấu ăn .
Tám gene liên quan đến bịnh Alzheimer nhưng chưa có thuốc chữa , và các test về di truyền để xác định bệnh (conclusive genetic test) chưa thể có trong vài năm . Các con gái của bà sẽ chấp nhận các xét nghiệm như vậy ? "Thật vô trách nhiệm nếu ko xét nghiệm : tôi muốn lập gia đình,"cô Serena (đang đọc báo) nói .
Cô Pauline ko đồng ý : Nếu tôi bị Alzheimer , tôi đành chịu." Cô Lina thì dè dặt (cautious) ."Điều gì nếu bảo hiểm biết rằng thử nghiệm dương tính và họ quyết định ko trả tiền để trị bịnh ?"
Dịch Từ : Secrets of the gene trên National Geographic Oct 1999
Triệu chứng đầu tiên của bịnh Alzheimer đã đến với Ina Savage , 58 t , khoảng 1 thập niên trước .
Ng đàn bà đã từng tổ chức cuộc sống của gia đình bà ở Baltimore , bang Maryland đã bắt đầu quên cái gì phải mua ở tiệm tạp hóa và mang theo cái gì khi nghỉ hè . Tới năm 1996 chẫn đoán cho thấy : bà đã bị giai đoạn sớm/đầu (early-onset) của bịnh Alzheimer , một dạng xuất hiện trước 65 t và chiếm 15/100 các trường hợp . Bà Ina vẫn can đảm/hăng hái (feisty) và nói nhiều (talkative) , nhưng ko còn là người mà chồng và con hằng biết . Các con gái dẫn bà đi chợ . Mặc quần áo (dressing) là 1 thách thức . Bà ko còn nhớ các bài dạy nấu ăn .
Tám gene liên quan đến bịnh Alzheimer nhưng chưa có thuốc chữa , và các test về di truyền để xác định bệnh (conclusive genetic test) chưa thể có trong vài năm . Các con gái của bà sẽ chấp nhận các xét nghiệm như vậy ? "Thật vô trách nhiệm nếu ko xét nghiệm : tôi muốn lập gia đình,"cô Serena (đang đọc báo) nói .
Cô Pauline ko đồng ý : Nếu tôi bị Alzheimer , tôi đành chịu." Cô Lina thì dè dặt (cautious) ."Điều gì nếu bảo hiểm biết rằng thử nghiệm dương tính và họ quyết định ko trả tiền để trị bịnh ?"
Labels:
Alzheimer's disease,
bịnh Alzheimer,
di truyền học,
gene,
genetic
Cách dịch một trang bằng bất cứ ngôn ngữ nào ra tiếng Anh hay tiếng Việt .
1/ Bản hảy nhấp phải vào trang , nó sẽ hiện ra .
2/ Bạn nhấp vào "Translate to English" , nó sẽ hiện ra .
3/ Bạn nhấp vào "Options" và chọn "Vietnamese" .
4/ Tới đây bạn nhấp vào "Translate" .
1/ Bản hảy nhấp phải vào trang , nó sẽ hiện ra .
2/ Bạn nhấp vào "Translate to English" , nó sẽ hiện ra .
3/ Bạn nhấp vào "Options" và chọn "Vietnamese" .
4/ Tới đây bạn nhấp vào "Translate" .
Subscribe to:
Posts (Atom)