Friday, February 7, 2014

Anh thông cảm cho tôi : méo mó nghề nghiệp đấy . Vì dầu gì cũng làm thông dịch cho một NGO của Pháp trong 4 năm (1990-1993) và dạy Toán 3 năm tại tư gia ở Mỹ (do thiên hạ nhờ cậy ) chứ tôi có vổ ngực xưng tên là thày giáo dạy học gì đâu ; vì trước 75 chĩ làm biết cầm súng . Mới xong lớp 11 trường tư là phải vào QĐ vì lịnh tổng động viên năm 1968 . Nhưng do tự học thêm trong thời gian đi lính và sau khi ra tù năm 1981 .
Thành ra , anh thấy tôi viết lách rất regle (phải có thêm dấu sắc trên hai chử e) , tạm dịch là chuẩn mực . Trước đây , khi dạy toán , nhìn sơ qua thì biết sai chổ nào , học trò rất sợ tôi . Mặc dầu chưa học ĐH ngày nào từ VN hay Mỹ . Sau này chuyển qua sửa chữa vi tính miễn phí cho bạn bè .
Anh có con đi học ở Mỹ như vậy rất tốn nhiều tiền vì bọn nó còn học high school . Nếu tôi ko lầm , tuition mổi năm cũng phải 15000 đô . Chưa kể ăn ở (nếu có bà con lo thì đở mặt này) .
Phải nói nền GD của Mỹ là tiên tiến nhứt TG : ko phải tôi ở Mỹ mà khen đâu . Có 1 lần , 1 GS người Đức được CP Đức mời làm Viện trưởng 1 ĐH ở Đức - mà anh bik , KHKT Đức cũng thuộc hàng đầu TG (ở Mỹ xe Đức có giá hơn xe Mỹ/nhựt) . Ông này từ chối , sang Mỹ dạy học cho 1 ĐH nổi tiếng . Khi hỏi tại sao ko nhận position cao hơn ở Đức , ông nói ở Mỹ ông được tiếp cận với KH tân tiến nhứt TG . Hiện giờ các phát minh mới nhứt phần lớn từ Mỹ và các giải Nobel cũng do Mỹ nắm rất nhiều . Trường Stanford , ở gần San Francisco , là nơi có nhiều GS có Nobel . ĐH Berkeley ở gần đó . Các hảng điện tử nổi tiếng của Mỹ như HP, Yahoo , Facebook , Google , Ebay , hay Apple , v.v... đều nằm ở bắc Cali . Có 2 đại gia Amazon và Microsoft thì đặt gần Seattle ở bang WA .

Thursday, February 6, 2014

GHÉT CỦA NÀO TRỜI CHO CỦA NẤY !
Chuyển ngữ từ nguồn : Why Vietnam loves and hates China by Andrew Forbes ở :
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/ID26Ae02.html
"Năm 1946 , 1700 năm sau tuyên ngôn của Bà Triệu , một nhà ái quốc vĩ đại khác của VN , HCM , đã cảnh báo các đồng chí của ông bằng lời lẽ mạnh mẽ , để chống lại việc dùng lực lượng Quốc Dân Đảng của TQ ở miền Bắc làm  trái đệm chống lại sự trở lại của người Pháp :
Các ông điên à ! Các ông ko biết điều gì xảy ra khi người TQ ở lại ? Các ông ko thuộc lịch sử à ?
Lần cuối cùng mà người TQ đến đây , họ đã ở lại 1000 năm . Người Pháp là ng nước ngoài . Họ đang yếu . Chủ nghĩa thực dân đang giẩy chết . Người da trắng đã kết thúc ở Á châu . Nhưng nếu người  TQ ở lại bây giờ , họ sẽ ko bao giờ ra đi . Đối với tôi , thà hửi cứt Pháp trong 5 năm còn hơn ăn cứt Tàu trong cuộc đời còn lại của tôi ."
NHẬN XÉT : Đúng là ghét của nào trời cho của ấy !
(In 1946, 1,700 years after Lady Triu's declaration, another great Vietnamese patriot, Ho Chi Minh, warned his Viet Minh colleagues in forceful terms against using Chinese Nationalist troops in the north as a buffer against the return of the French: "You fools! Don't you realize what it means if the Chinese remain? Don't you remember your history?
"The last time the Chinese came, they stayed a thousand years. The French are foreigners. They are weak. Colonialism is dying. The white man is finished in Asia. But if the Chinese stay now, they will never go. As for me, I prefer to sniff French shit for five years than to eat Chinese shit for the rest of my life.") ./.

======
Thơ vịnh sự lạm quyền của người CS .
Dù ai nói ngã nói nghiêng ,
Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân .
Phương Tây LÁ PHIẾU dựa vào ,
Ta đây HỌNG SÚNG dựa vào muôn năm .
Một lòng thờ Đảng kính Đô (la) ,
Cho tròn chữ hiếu mới là đảng viên .

GS Nguyễn Ngọc Lung kể chuyện Global Witness và rừng Việt Nam
(ĐVO) - "Muốn khắc chế được nạn phá rừng, trước tiên phải cắt quyền của nhóm lợi ích" - GS.TS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ nói về cáo buộc phá rừng của tổ chức GW.
GW từng cáo buộc doanh nghiệp Việt Nam phá rừng
PV:-  Với những lý do trồng rừng thì phải khai hoang, tạo công ăn việc làm cho rất nhiều người ở Tây Nguyên và căn bản nhất là tất cả đều đúng luật. Nhưng tàn phá rừng, thiệt hại không chỉ tới môi trường sống của cư dân bản địa mà còn kéo theo nhiều hệ lụy khác. Là một nhà khoa học, một nhà quản lý ông nhìn nhận vấn đề này thế nào? Ông nghĩ gì trước lời cáo buộc Tập đoàn HAGL đang nhân danh kinh tế để phá rừng của tổ chức Global Witness (GW)?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung:- GW nói đúng chứ không sai. Đó là một tổ chức có uy tín trên thế giới nếu họ đã có cáo buộc thì họ sẽ có bằng chứng.
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ
GW là một tổ chức họ điều tra tất cả mọi thứ nhưng lại không để lộ thông tin. Chỉ đến khi họ công bố thông tin chính thức trên tạp chí của họ. Họ có tất cả các bằng chứng mà không thể chối cãi được.
GW từng có bài báo viết về nạn phá rừng buôn gỗ cách đây 15 năm. Đó là bài điều tra có tên là "Chế tạo tại Việt Nam nhưng khai thác tại Campuchia". Bài báo nói về một đường dây phá rừng buôn gỗ lậu từ TP.HCM do một  công ty thuộc Tổng Cty Lâm nghiệp ở đó làm...
Nghĩa là, Campuchia chặt gỗ bán, mình mua ký hợp đồng giữa hai nước và nhận hàng ở biên giới.
Nhưng công ty của Việt Nam đã đàm phán riêng với Campuchia mua trực tiếp khu rừng nào thì sẽ tự sang khai thác và vận chuyển lấy (tự khai thác thì họ không quản lý, khai báo bao nhiêu m3 gỗ thì trả tiền bấy nhiêu- PV). Đó là chỉ vì tiền lãi mà phải làm như vậy.
Sau một sự cố đáng tiếc, Chính phủ đã yêu cầu mở một hội nghị tại Phnom Penh, họp với Campuchia, Lào, GW. Từ đó, đã có chỉ đạo ngăn chặn các doanh nghiệp chỉ vì lãi mà làm mất uy tín, của Việt Nam.
Nhưng, hiện nay phá rừng, khai hoang lấy đất, có thể bản chất của nó là không hợp pháp nhưng họ sẽ tìm mọi cách để hợp pháp hóa nó. Trước đây, các đại gia Sài Gòn để lấy được đất rừng họ thực hiện như sau:
Lợi dụng chính sách ưu tiên của nhà nước với người dân tộc (cụ thể là dân tộc Thượng phá rừng thì không bị phạt), các đại gia này đã tìm cách tiếp cận với người Thượng, cho họ ít tiền để họ chặt rừng đốt rẫy,  trồng vài trăm cây điều, rồi bán nương điều này cho chính đại gia đó để họ công khai trồng cà phê. Đại gia lại tiếp tục cấp tiền, cấp giống rồi tiếp tục đầy lùi họ vào rừng sâu, tiếp tục phá, tiếp tục lấy đất...
Đó chính là cách ban đầu để các đại gia này hợp pháp hóa lấy đất rừng để trồng cà phê.
Sau này, người dân tộc không được phá rừng nữa, rừng được giao cho bản làng, già làng quản lý. Các già làng, già bản sẽ phải khai báo cần bao nhiêu diện tích đất rừng để trồng điều sẽ được nhà nước cấp. Lúc này các đại gia lại áp dụng biện pháp chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Với những khu đất trống, đồi trọc mà bị bào mòn thì giá trị kinh tế không cao, nên các đại gia này muốn khai thác đất rừng, loại đất tốt nhất. Và họ tàn phá đất rừng này bằng cách cứ đẩy lùi người dân tộc vào sâu trong rừng rồi để họ khai hoang, sau đó lại mua lại với giá rất thấp.
Có thể GW nay lại tố cáo cách làm của HAGL hiện nay là thuê đất trồng cao su của nhà nước Lào và Campuchia, mà việc chặt rừng và dãn dân thuộc trách nhiệm người cho thuê đất. Cái hợp lý của họ là cái sai mà cả thế giới phản đối nhưng lại được hợp thức hóa, được pháp luật công nhận.  
Ngay ở Tây nguyên, từ năm 2007, chính phủ cho phép lấy 100.000 ha đất chưa sử dụng và chủ yếu là từ rừng tự nhiên nghèo để phát triển quy hoạch cao su.  Sau 5 năm hàng trăm dự án đã được phê duyệt và triển khai, trong đó đa số chủ đầu tư là các đại gia chứ không phải Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam (VRG).
Trong khi 1 dự án thuỷ điện chiếm 200-300 ha rừng được hàng vạn tiếng nói, hàng trăm tổ chức lên tiếng bảo vệ rừng, thế mà hàng trăm lần mất rừng tự nhiên cho cao su thì chỉ có Hội đồng đánh giá tác động môi trường (ĐTM) bảo vệ .
Tháng 12/2011 chuyên gia Cục thẩm định và ĐTM thuộc Tổng cục Môi trường khảo sát, chỉ ra nhiều dự án chặt rừng tự nhiên nghèo để trồng cao su đã không thực hiện cam kết “Bảo vệ môi trường” và nhất là “Sử dụng lao động tại chỗ" đến nỗi UBND tỉnh Đắc Lắc đã dừng chủ trương đầu tư 28 dự án. Tôi không bình luận, vì không nghiên cứu tố cáo của GW lần này là gì, có giống như lấy rừng tự nhiên ở Tây Nguyên?
Mục đích của người phá rừng không phải là phá môi trường để cho con người chết, mà chỉ vì một cái lợi trước mắt, chỉ vì mấy đồng bạc bỏ túi mà làm như vậy.
PV: - Có thể nhân danh phát triển kinh tế, làm giàu cho đất nước, tạo công ăn việc làm mà được quyền phá rừng để...trồng rừng mới với hiệu quả cao hơn?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung: - Từ năm 1992, Việt Nam cũng đã ký vào nhiều công ước quốc tế, trong đó có  vấn đề phát triển rừng bền vững. Đó là khoảng thời gian người ta nói rằng loài người bỗng tự nhiên tỉnh ngủ, sau khi  đã ăn quá nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, khiến môi trường bị tàn phá, gây biến đổi khí hậu, một số nước bị sa mạc hóa.
Nhận thức việc này, thế giới đã cho ra đời hàng loạt các công ước. Quan trọng nhất là lĩnh vực “Môi trường và phát triển”.
Trong  công ước khung về  biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, cũng có một quy định về cơ chế phát triển sạch (CDM) khi trồng rừng xin tín chỉ carbon, thì từ năm 2000 không được chặt rừng tự nhiên (dù nghèo kiệt) để trồng rừng mới.    
Một  tổ chức bảo vệ rừng tự nhiên nữa là Hội đồng quản trị rừng thế giới  (FSC), là tổ chức cấp chứng chỉ cho chủ rừng đang “quản lý bền vững” để gỗ được lưu thông vào mọi thị trường mà giá lại cao hơn rất nhiều. Nhưng FSC cũng nói ngay, không được cấp chứng chỉ nếu chuyển rừng tự nhiên sang rừng trồng sau tháng 11/1994. 
Việc  trồng cao su cũng vậy. Cây cao su là cây đa mục đích có thể trồng rừng lấy mủ, lấy gỗ, hoặc trồng rừng phòng hộ. Nhưng rừng cao su về mặt môi trường không tốt như các rừng trồng khác, thứ nhất đa dạng sinh học đơn giản, thứ hai là khả năng hấp thụ khí CO2 kém (chu kỳ 30 năm chỉ tích lũy được 20-30 tấn sinh khối khô...) 
Các doanh nghiệp phá rừng tự nhiên, chuyển thành rừng trồng đã bị cả thế giới lên án, lại chuyển sang trồng rừng cao su thì điều đó càng không nên, trừ khi trồng trên các loại đất chưa sử dụng khác.
Thực ra ở Viêt Nam hiện nay, đầu cơ, buôn đất mới là có lãi lớn. Có đất rồi, có sổ đỏ rồi hoặc hợp đồng thuê đất,  chỉ cần nhượng 1 vài ha thì cũng đã đủ  tiền chi phí và  bôi trơn để có được đất sạch cho 1 dự án cao su . Vì khi có quyền sử dụng đất thì có thể chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất  như đã lộ ra qua sự kiện Nông trường Sông Hậu, hay đất nuôi trồng thuỷ sản ở Tiên Lãng, Hải Phòng .
Muốn khắc chế nạn phá rừng phải cắt quyền của nhóm lợi ích
PV:- Việc lách luật nhằm khai thác gỗ rừng có nhiều cách và nạn nhân của các "lâm tặc" thường xuất hiện ở các quốc gia nghèo đói hoặc đang khát vốn để phát triển. GW tiến hành điều tra riêng, cáo buộc trên trường quốc tế nhằm ngăn chặn lâm tặc quốc tế.  Xét cho cùng thì hiệu quả vẫn không cao, không thể ngăn chặn được nạn phá rừng ồ ạt trong phạm vi từng quốc gia, ông có cao kiến gì để khắc chế quốc nạn phá rừng?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung:- Tây Nguyên được coi là mái nhà xanh, là lá phổi giữ ổn định sinh thái cho cả nước. Nhưng chỉ cần theo dõi thông tin là biết, cứ mỗi lần mưa lũ là hàng trăm ngôi nhà bị cuốn trôi, mùa màng bị phá huỷ, hàng vạn m3 gỗ mênh mông trôi ở các cửa sông. Nhìn vào đó là biết ngay, lâm tặc vẫn hoành hành.                                 
Ảnh minh họa
Khai thác cao su. Ảnh minh họa
Đó là điều bất cập. Bất cập ở chỗ càng biết luật lại càng làm trái luật. Đến cả không ít người thực thi lâm luật lại có lúc, có nơi cộng tác với lâm tặc hoặc bảo vệ nhóm lợi ích cao hơn. Tức là, lẽ ra họ phải chống thì họ lại làm, mà không chỉ riêng gì trong  kiểm lâm mà bất cứ ngành nào cũng có.
Lợi ích đó chỉ có những người có chức có quyền mới làm được. Người ta gọi là tham nhũng.   
Việc giữ rừng chỉ với một lực lượng chuyên trách thì không thể làm được. Nếu nhìn ra các nước, với Campuchia, Lào cũng vậy cũng giống như nước ta nạn tham nhũng hoành hành làm nghèo đi đất nước.                                     
Một thực tế là cứ chống cái gì thì cái đó lại phát triển mạnh, chống buôn lậu thì buôn lậu nhiều hơn, chống tham nhũng thì tham nhũng lớn hơn. Tốt nhất là không nên chống nữa. Chính vì vậy, phải cải cách đồng bộ toàn hệ thống hành chính.                                                                                       
Phải làm đồng bộ, đa sở hữu. Khi ruộng ở thành phố còn mất  thì đất rừng mất là đương nhiên. Vì hiện tại giờ đất rừng đang là sở hữu của toàn dân, Lâm trường quản lý rừng sản xuất, hiện nay không tư nhân hoá được.
Không cổ phần hoá được cũng tại chính sách đất đai vẫn như hồi chiến tranh. Nhà nước có quyền thu hồi, thu hồi xong lại có quyền chuyển mục đích sử dụng thì các nhóm lợi ích họ phải giữ bằng được chính sách này...
Muốn khắc chế được điều này phải làm sao để nhóm lợi ích không có được hai quyền đó.
PV:- Việc các nhóm lợi ích liên kết lại dùng lệ để lách luật là vô cùng khó điều tra cáo buộc trước công luận. Vậy theo ông, chúng ta cần phải làm gì để ngăn chặn nạn phá rừng tàn phá môi trường sống?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung: - Phải cải tổ từ gốc. Không thể để người có quyền thích diễn vở gì, thì dân được xem vở đó.   
Nếu nói sòng phẳng, thì khó. Vì khi có một tí quyền là có khả năng tham nhũng. Vậy thì có thể kỷ luật được không. Không. Vì tất cả người có quyền đều đã tham nhũng, hoặc đang tập tham nhũng. Hãy chỉ ra xem có ông cán bộ cấp xã, cấp huyện nào không quá giàu, chỉ cần so với trước đây 20-30 năm, họ cũng nghèo như dân!
Nếu rừng mất hết thì sẽ chết cả nhân loại, người giàu cũng chết, người nghèo cũng chết chứ không phải riêng gì ai. Chính vì vậy mà các nước tư bản họ rất sợ mất rừng. Mất rừng sẽ sinh ra bão tố, lụt lội, biến đổi khí hậu nghĩa là ảnh hưởng tới cả nhân loại.   
Nhưng do sự ích kỷ của con người chỉ vì cái lợi trước mắt mà đôi khi họ bất chấp tất cả.
Tận thu gỗ là tiếp tay cho lâm tặc
PV:- Báo chí Lào ca ngợi hết lời tập đoàn HAGL, thậm chí Chủ tịch tập đoàn HAGL còn lên tiếng cho rằng GW đã lợi dụng tập đoàn này để đánh bóng tên tuổi. HAGL cũng khẳng định không lấy một m3 gỗ nào, chỉ nhận đất sạch. Ông nhận xét gì về điều này?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung: - Việc HAGL (hay bất kỳ ai) đầu từ sang các nước khác thì thường là phải có lãi hoặc lợi ích cao hơn, đầu tư là hành động kinh doanh chứ không phải là làm nhân đạo. Còn nước được đầu tư cũng thấy cái lợi, là có vốn, có công nghệ, hơn thiệt thì chính họ phải cân nhắc, có thể cho  là cơ hội  được  vay vốn  của HAGL, hoặc cơ hội cải thiện đời sống cho dân.
Có lẽ HAGL nói đúng. Nếu theo luật của Việt Nam thì chủ đầu tư được thuê đất sạch, không liên quan đến kinh doanh gỗ để giải phóng mặt bằng như xưa.
Nhưng như tôi đã nói, từ cách đây 15 năm tôi đã phải chủ trì cuộc họp ở Đông Dương chính là vì Campuchia lúc đó các quân khu được giao rừng, giao mỏ đá quý  đang phá rừng ác liệt, mà  mình mua gỗ của Campuchia thì thế giới đã lên tiếng cảnh báo đây là hành động tiếp tay cho nạn phá rừng. Do quan niệm khác nhau, mình đã lý luận rằng mình không mua thì các nước khác họ sẽ mua vì vậy tôi mua trên cơ sở bình đẳng quốc tế. Ký hợp đồng mua bán, việc vi phạm của 1 công ty thì công ty đó bị xử lý...
Tức là mình không muốn tiếp tay phá rừng nhưng nếu không mua thì họ vẫn bán để nuôi sống quân đội của họ. Tôi không thể bình luận gì vì chưa nghiên cứu tố cáo của GW và không có thông tin về dự án  của HAGL .                    
PV:- Trên thực tế, VN cũng đã hoàn tất chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng nhưng Tây Nguyên vẫn bị hạn hán, lũ lụt nhiều hơn trước, Tây Bắc cũng trong tình trạng sa mạc hóa nhiều nơi, như vậy, người trồng dứt khoát không thể kịp cho kẻ phá. Theo ông, đã đến lúc cần 1 kế hoạch tổng thể cấp quốc gia để giữ gìn những vùng rừng?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung: - Không phải cả đất nước đều giống nhau. Trước đây có chương trình 327, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cả nước thực hiện chương trình từ 1992-1997. Khi đất nước còn rất nghèo, nhưng vì lúc đó tỉ lệ rừng còn có 27%, mỗi một năm nhà nước phải bỏ ra 50 triệu USD để đầu tư trồng rừng. Trong 5 năm phục hồi được 1,4 triệu ha làm cho môi trường sống được cải thiện hơn rất nhiều.      
Nhưng nơi giàu rừng nhất là Tây Nguyên. Mà ở đó cả nước xô vào khai hoang, Đắc Lắc cũ nay có 1,6 triệu dân, so với năm 1976 chỉ có 0,35 triệu. Khi kinh tế phát  triển đến đến đâu thì môi trường bị hủy hoại đến đó, đồng thời nó cũng tác động xấu đến văn hoá, đạo đức của con người. Đúng là phải có 1 chiến lược phát triển bền vững cho Tây Nguyên, trong đó vai trò của rừng là rất quan trọng .
PV:- Có nghĩa là chưa thể có một giải pháp tổng thể để bảo vệ rừng, thưa ông?
GS.TS Nguyễn Ngọc Lung: - Vâng, tuy xã hội đang có nhiều biến chuyển lớn, nhưng chưa thể thực thi một giải pháp tổng thể nào, nếu không thống nhất được ý chí toàn dân, nếu không thoát ra khỏi quốc nạn tham nhũng, phe phái và nhóm lợi ích, trong cục bộ từng ngành, từng địa phương.
Xin cảm ơn ông!
Kì tới: Một vài sự thật

Nguyễn Vũ (thực hiện)
NẠN PHÁ RỪNG TRỒNG CAO SU . nguồn : RFA

Thêm một tác nhân làm giảm diện tích rừng tự nhiên tại Việt Nam là việc chuyển đổi rừng nghèo để trồng cao su.
Thực tế đó đáng ngại ra sao?
Đây là đề tài trong chuyên mục Khoa học- Môi trường kỳ này.

Thực tiễn

Đối với nhiều người Việt Nam thì hình ảnh những rừng cao su thường được thấy tại các tỉnh miền đông nam bộ trên đường trước khi vào Sài Gòn. Ở Tây Nguyên cũng có những đồn điền cao su, thế nhưng không phải nhiều như hiện nay. Bây giờ ở những tỉnh tại khu vực miền Trung cũng có những khu trồng cao su như thế.
Theo quy hoạch trồng cây cao su toàn quốc mà chính phủ Việt nam đã phê duyệt thì đến năm 2020, Việt Nam sẽ trồng 800 ngàn héc ta cao su. Tuy nhiên thống kê cho thấy mới đến năm ngoái, tổng diện tích cao su tại Việt Nam đã lên đến 915 ngàn héc ta.
Cụ thể ,ngoài những diện tích cao su đã có từ trước, thì từ năm 2009 đến năm 2020, tại Tây Nguyên được trồng thêm 100 ngàn héc ta nữa mà thôi.
Vậy mà, theo tờ Tuổi Trẻ hồi đầu tháng 10 vừa qua cho biết tại tỉnh Gia Lai ở Tây Nguyên đã có gần 100 ngàn héc ta diện tích cây cao su. Diện tích này hồi năm 2009 ở Gia Lai chỉ chừng 70 ngàn héc ta mà thôi.
Vừa rồi có một chu kỳ tăng giá rất tốt cho mủ cao su, 5-7 năm liền giá trị cây cao su rất cao, nhiều người cứ lầm tưởng đó là một loại ‘vàng trắng’ có thể giữ giá lâu dài nên họ tranh thủ trồng. Ngoài ra việc chuyển đổi đất rừng thành đất cao su không phải tốn chi phí bồi thường, thậm chí còn có lợi khi khai thác gỗ
Ông Nguyễn Đình Xuân
Tỉnh lân cận với Gia Lai là Dak Lak cũng có hơn 70 dự án chuyển đổi đất rừng, đất lâm nghiệp sang trồng cây cao su và cải tạo, quản lý, bảo vệ rừng với tổng diện tích trên 70 ngàn héc ta.
Lý do vì sao lại có tình trạng đổ xô nhau đi trồng cao su như thế? Ông Nguyễn Đình Xuân, nguyên giám đốc Vườn Quốc gia Lò Gò- Xá Mát, Tây Ninh đưa ra đánh giá:
Vừa rồi có một chu kỳ tăng giá rất tốt cho mủ cao su, 5-7 năm liền giá trị cây cao su rất cao, nhiều người cứ lầm tưởng đó là một loại ‘vàng trắng’ có thể giữ giá lâu dài nên họ tranh thủ trồng. Ngoài ra việc chuyển đổi đất rừng thành đất cao su không phải tốn chi phí bồi thường, thậm chí còn có lợi khi khai thác gỗ. Ngược lại nếu phải lấy bất kỳ diện tích đất nào của dân hiện nay đều phải bồi thường rất nhiều, phát sinh khiếu kiện… Còn rừng là của Nhà nước, của công nên khi chuyển đổi không phải đền bù gì nên họ rất mê chuyển đổi rất rừng để trồng cao su. Kể cả không trồng cao su mà trồng bất cứ cây gì cũng thuộc về họ. Theo tôi một trong những động cơ là vì lợi ích của họ hơn là lợi ích lâu dài của đất nước.
Những cánh rừng mênh mông bị khai thác tận cùng cho cái gọi là dự án trồng cao su.
Những cánh rừng mênh mông bị khai thác tận cùng cho cái gọi là dự án trồng cao su. AFP
Lạm dụng
Chủ trương của chính phủ là cho các đơn vị Nhà nước cũng như tư nhân tham gia triển khai những dự án chuyển đổi rừng nghèo kiệt bằng cách trồng cao su hay những loại cây công nghiệp khác. Thế nhưng chính chủ trương này lại là đường để cho các đơn vị phá rừng.
Ông Chu Quốc Cổn, phòng Khoa học và Công nghệ, Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng, cho tờ Đất Việt biết rằng theo qui định chỉ có rừng nghèo kiệt, tức rừng có dưới 50 mét khối gỗ một héc ta mới được chuyển đổi, thế nhưng nhiều địa phương đã bỏ chữ ‘kiệt’  đi và cho phép thực hiện việc chuyển đổi rừng như lâu nay.
Phấn lớn người ta lợi dụng chủ trương này để trồng cao su trên những diện tích đất rừng, gọi là rừng nghèo nhưng thật ra vẫn còn giữ nhiều giá trị đa dạng sinh học
Ông Nguyễn Đình Xuân
Ông Nguyễn Đình Xuân nói về điều này:
Nói chung chỉ có một phần nhỏ những rừng do quản lý kém quá hiện nay không còn gì nhiều, rồi không phát huy hiệu quả về phòng hộ, về đa dạng sinh học có thể chuyển đổi sang trồng cao su được nhưng rất ít. Phấn lớn người ta lợi dụng chủ trương này để trồng cao su trên những diện tích đất rừng, gọi là rừng nghèo nhưng thật ra vẫn còn giữ nhiều giá trị đa dạng sinh học. Ví dụ rừng Khộp ở Tây Nguyên, trông thưa thớt vậy thôi nhưng nó chưa một hệ đa dạng sinh học riêng, đặc thù của nó. Theo tôi nghĩ nếu chủ trương này làm ở mức hạn chế và có kiểm soát tốt thì không đến nổi đâu, nhưng vừa rồi có dấu hiệu người ta lợi dụng chủ trương này để biến rừng giàu thành rừng nghèo một cách vô tình hoặc cố ý, rồi biến rừng nghèo thành đất trồng cao su gây hại cho môi trường, đặc biệt là khu vực thượng nguồn.
Một viên chức phụ trách nông nghiệp tại tỉnh Quảng Bình thì cho rằng không hề có việc địa phương lách để cho các đơn vị trồng cây cao su:
Không có chuyện đó, việc trồng cao su phải thực hiện đúng theo qui hoạch của tỉnh và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không có chuyện mà chặt rừng để trồng cao su đâu. Biến đổi rừng kiệt là một chủ trương đúng của bộ cũng như của tỉnh.
Thống kê của Tổ chức Forest Trends cho thấy từ diện tích gần 70 ngàn héc ta rừng tự nhiên trong khuôn khổ trên 200 dự án trồng cao su số gỗ tận thu được cho biết là gần 400 ngàn mét khối.
Theo tổ chức Tropenbos Việt Nam, thì con số thực tế phải còn cao hơn con số vừa nêu.

Lợi-hại
Việc phá những khu rừng tự nhiên để trồng các loại cây công nghiệp như cây cao su là một việc làm tai hại vì những đồn điền cây trồng như thế không những không thể nào thay thế được rừng tự nhiên mà còn có những tác động gây hại đến cho môi trường.
Ông Nguyễn Đình Xuân trình bày về những vấn đề này như sau:
Khi phá rừng được rồi thì người ta trồng cây gì là tùy họ mặc dù họ nói trồng cây cao su. Nhưng giả sử 5-7 năm nữa nếu cây cao su quá tệ họ có thể chuyển sang cây khác vì (đất) vẫn là của họ. Vấn đề là nay họ được quyền sử dụng mảnh đất mà trước đây không thuộc về họ
ông Nguyễn Đình Xuân
Nhiều người cho rằng cây cao su là cây đa mục tiêu hàm ý nó cũng có thể thay thế cây rừng; tuy nhiên tác dụng như cây rừng của nó rất hạn chế, chủ yếu chỉ có là che bóng mà thôi. Nếu nói về những yếu tố khác như nhiều tầng, nhiều táng chẳng hạn thì cao su không có. Nó chỉ có một tầng thôi. Thứ hai nữa nó không có đa dạng sinh học vì cây cao su là cây ngoại lai nên rất ít sinh vật sống được cộng sinh với nó, sống nhờ nó. Thứ ba nữa đối với cây cao su người ta vẫn phải dùng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và phải cày đất hằng năm để chống cháy, để bón phân… Những yếu tố đó cũng làm cho đất bị sói mòn nhất định, rồi dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật vẫn còn, nên đưa lên thượng nguồn cũng không khỏi ảnh hưởng đến chất lượng nước. Nó khác với rừng, trong rừng không có bón phân, không cày bừa trong rừng. Nên độ bảo vệ, che phủ của rừng tốt hơn.
Và ông Nguyễn Đình Xuân kết luận:
Những cây công nghiệp khác như cây keo, mặc dù nó là cây rừng, nhưng bản chất đó là một cây kinh tế- công nghiệp; hay người ta có thể trồng cà phê, tiêu… Khi phá rừng được rồi thì người ta trồng cây gì là tùy họ mặc dù họ nói trồng cây cao su. Nhưng giả sử 5-7 năm nữa nếu cây cao su quá tệ họ có thể chuyển sang cây khác vì (đất) vẫn là của họ. Vấn đề là nay họ được quyền sử dụng mảnh đất mà trước đây không thuộc về họ.
Nguy hiểm là mất rừng, mất đất. Đất này trước đây là của công, của Nhà Nước. Dù cho thuê hay cấp nhưng đã chuyển sang sở hữu của một cá nhân hay công ty nào đó.
Đặc biệt những khu rừng ở miền trung và miền bắc, có nhiều người chuyển sang trồng cao su là hết sức sai lầm vì những vùng đó bị bão lũ hằng năm và điều kiện, thổ nhưỡng không phù hợp với cây cao su. Nếu có trồng chăng nữa năng suất rất thấp và giá cao su rẻ như thế này chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường không có mà rừng bị mất. Đặc biệt những cơn bão liên tiếp tại miền trung vừa qua gây thiệt hại lớn cho diện tích cao su. Nhưng dường như mọi người vẫn muốn trồng lại cây cao su, theo tôi rủi ro rất lớn.
Hồi cuối tháng 9 vừa qua, tâm bão số 10 đổ bộ vào tỉnh Quảng Bình khiến cho những diện tích trồng cao su mới của người dân bị phá hủy khá lớn.
Một người dân cho biết:
Thiệt hại nhiều nhất về tài sản là cây cao su, tại đó người dân đầu tư rất lớn vào cây cao su. Đợt bão vừa rồi coi như thiệt hại ‘trắng’. Người ta phải phá đi trồng lại. Thiệt hại trên 70 tỷ. Hầu hết người dân đầu tư cho cây cao su phải vay vốn, đầu tư 7-8 năm nay chuẩn bị khai thác thì nay bị gãy đỗ hết.
Tiến sĩ Trần Đại Nghĩa, giám đốc Trung Tâm Thông tin Phát triển Nông Nghiệp Nông Thôn cũng có một số đánh giá về tình trạng phát triển trồng thêm cao su trong những năm gần đây tại Việt Nam và rủi ro của lọai cây này:
Cách đây khỏang chục năm thì những khỏang rừng khộp… có thể chuyển để trồng cây cao su; vì cây cao su nhiều khi nguời ta coi đó là một lọai cây đa dụng tức có nghĩa cây đa dụng có thể coi như rừng. Tuy nhiên không phải rừng tự nhiên; dứt khoát những lọai như thế không thể bằng rừng tự nhiên đuợc vì rừng tự nhiên phải có tầng, có lớp để đảm bảo tính phòng hộ của nó. Thực sự quĩ đất cho cao su bây giờ không còn nữa.
Những chỗ nào trồng được thì nguời ta đã trồng rồi, còn những phần đất còn lại nếu trồng cũng rất khó. Cơn bão vừa rồi cách đây hơn một tháng gây thiệt hại rất lớn cho cây cao su. Cây cao su chỉ cần gãy đọt, ngọn, trốc gốc là không bao giờ có mủ nữa, làm gỗ cũng không đuợc.
Giáo sư- Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Ngọc Lung thuộc Viện Quản lý Rừng Bền vững & Chứng chỉ rừng cho rằng không có cách giải thích nào khác dễ nghe hơn cho tình trạng phát triển vội vàng cây cao su trên những diện tích rừng tự nhiên được chuyển đổi là vì quyền lợi cục bộ địa phương hoặc lợi ích nhóm.
Mục Khoa học- Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại các bạn trong chương trình kỳ tới.

Anh Đoàn Nguyên Đức có phá rừng? 

Nguồn : Hiệu Minh Blog

Trong bài trên có 1 'còm' rất hay mà tôi đã đặt lại tựa như sau : NHỮNG NGƯỜI XỬ DỤNG BÀN GHẾ , TRANG TRÍ NỘI THẤT BẰNG GỖ QUÝ ĐÃ VÔ TÌNH TIẾP TAY VỚI BẦU ĐỨC PHÁ RỪNG ! Tôi vẫn biết rằng một số gổ quý  đã được xuất khẩu nhưng theo tôi nghĩ phần lớn được tiêu thụ nội địa , theo như nhận xét của còm sĩ dưới đây .

" fairfaxva says:
Bài viết đọc “đã” thiệt. Cảm ơn bác Cua.
Bầu Đức tội to tội nhỏ trong chuyện phá rừng thì đã bàn cả rồi. Điều đọng lại là tại sao bầu Đức phá rừng?
Phá rừng để trồng cao su? Phá rừng để trồng cây khai thác gỗ? Phá rừng để làm thủy điện ư? Xin thưa, có hết. Nhưng nếu phá rừng không có hay ít giá trị thì chưa chắc bầu Đức đã chịu phá. Có biết bao nhiêu cánh rừng trọc cần trồng cây, sao bầu Đức không trồng cây lên đó, đỡ chi phí phá rừng.
Nguyên do chính của việc phá rừng là giá trị cực kỳ lớn của khu rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn. Những nhóm gỗ 1A, 1B bao nhiêu tiền một mét khối? Còn những loại gỗ khác thì sao? Hàng trăm hecta rừng sau khi trừ đi chi phí đút lót, khai thác, phần còn lại đều lọt vô túi riêng của bầu Đức. Làm sao mà không tham.
Mọi người ném đá bầu Đức trong chuyện phá rừng, có khi nào tự nhìn mình hay xung quanh mình có “đóng góp” công sức trong việc phá rừng hay không?
Nhìn những bộ bàn ghế, tủ, giường bằng gỗ lim, trắc, gụ bóng loáng ở công sở, ở nhà riêng của cả quan chức lẫn dân thường, tôi thắt lòng vì biết rằng rừng đã vĩnh viễn mất đi biết bao cây gỗ quý. Tệ hại hơn nữa khi nhìn thấy những ngôi nhà sàn bằng gỗ 100% của các đại gia, tiểu gia, dù họ cho rằng mình sống hòa hợp với môi trường, tôi cho rằng những hành vi xây nhà kiểu ấy cần bị lên án mạnh mẽ.
Nếu những người dân tộc thiểu số làm nhà toàn bằng gỗ, hay họ đốt rừng làm rẫy, họ đáng bị trách một thì những người có chút kiến thức, có tiền bạc tiêu thụ gỗ tốt từ rừng đáng bị trách đến mười.
Nếu những nhận thức về thiên nhiên còn hời hợt, kiểu cha chung không ai khóc, thì không chóng thì chầy những khu rừng cuối cùng sẽ đội nón ra đi.
Ông Đoàn Nguyên Đức – chủ phạm, còn chúng ta – phần nào đóng vai trò tòng phạm, trong việc phá rừng.
P.S: “Chúng ta” để chỉ những người tiêu thụ, sở hữu gỗ quý, không phải mọi người dân Việt."

Wednesday, February 5, 2014

Bộ luật Dân sự Pháp (tiếng Pháp: Code Civil) còn gọi là Bộ luật Napoléon là bộ luật về dân sự được kiến lập bởi Napoléon Bonaparte vào năm 1804. Với Code Civil có lẽ Napoléon đã tạo nên một tác phẩm luật quan trọng nhất của thời kỳ Hiện đại. Tại Pháp, về nhiều phần cơ bản, bộ luật Napoléon này vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay.
Lịch sử
Các phác thảo đầu tiên cho một bộ luật dân sự đã được tiến hành ngay từ trong những năm 1793 đến 1797 của cuộc Cách mạng Pháp. Năm 1800 Napoléon chỉ định một ủy ban bốn người dưới sự lãnh đạo của Jean-Jacques Régis de Cambacérès để tạo thống nhất trong luật pháp. Cho đến thời điểm đó trong miền Nam nước Pháp Luật La Mã vẫn còn hiệu lực, trong miền Bắc là luật theo tập quán được truyền lại cũng như là luật tạm thời của Cách mạng Pháp trong một vài năm. Mục đích của ủy ban là tạo nên một gạch nối giữa Luật La Mã và luật theo tập quán và đặc biệt là giữa Luật La Mã và luật cách mạng. Tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp thể hiện trước tiên là trong nguyên tắc tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, bảo vệ và sự tự do của cá nhân và của sở hữu cũng như là chia cắt nghiêm ngặt giữa nhà thờ và quốc gia. Một tác phẩm 5 tập của luật sư Jean Domat được xem như là nguồn quan trọng cho bộ luật.
Bộ luật cũng được đưa vào áp dụng trong các quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của Pháp trong thời gian từ 1807 đến 1814 (thí dụ như Đại công quốc Warszawa (tiếng Anh: Warsaw), Đại công quốc Luxembourg, Mexico, Ai Cập, một số bang của Hoa Kỳ hay Vương quốc Hà Lan). Tại Đức bộ luật này có hiệu lực trực tiếp trong các vùng tả ngạn sông Rhein do nước Pháp chiếm đóng, trong một số quốc gia của Liên minh Rhein (tiếng Đức: Rheinbund) (Vương quốc Westfalen, Frankfurt am Main, Berg, Anhalt-Köthen) bộ luật được đưa vào sử dụng không có thay đổi lớn.
Chỉ trong vòng vài năm bộ luật đã có hiệu lực từ Lissabon đến Vacsava và từ Hà Lan cho đến bờ biển Adria. Thất bại của Napoléon tại Waterloo đã không kìm hãm được việc truyền bá bộ luật này: đặc biệt là ở Tây Âu và Nam Âu cũng như là ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ các bộ luật đều hướng về Code Civil. Tuy vậy một vài quy định có nguồn gốc từ cuộc cách mạng cũng là điểm yếu: tại nhiều vùng quyền kế thừa ngang nhau của tất cả các người con dẫn đến việc chia cắt sở hữu đất đai thành những mảnh đất nhỏ không còn mang lại lợi tức; phụ nữ bị đặt dưới quyền của một người giám hộ và vì vậy đã bị đặt vào một vị trí bất lợi chưa từng có, việc li dị ưu tiên một phía cho người đàn ông.
Tại Pháp trong số 2.285 điều khoản hiện đang có hiệu lực của bộ luật là vẫn còn 1.200 điều khoản phù hợp với tác phẩm nguyên thủy.
Năm 2004 tại 22 quốc gia đã có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập tác phẩm này.

Nội dung

Từ khi có hiệu lực vào năm 1804 Bộ luật Dân sự Pháp được chia thành 3 quyển:
  • Livre I: Des personnes (Cá nhân)
  • Livre II: Des biens et des différentes modifications de la propriété (Tài sản và thay đổi khác của sở hữu)
  • Livre III Des différentes manières dont on acquiert la propriété (Các cách khác nhau để đạt được sở hữu)
Năm 2000 quyển thứ tư (Dispositions applicables à Mayotte) được thành lập quy định về việc áp dụng của bộ luật trên lãnh thổ hải ngoại Mayotte.

Đọc thêm

Tham khảo

  • K.D. Wolff: Code Napoléon - Napoleons Gesetzbuch (Code Napoléon - Bộ luật của Napoléon), Stroemfeld Verlag, 2001 (Faks. der deutschen Übersetzung von 1808), ISBN 3878775733
  • Elisabeth Fehrenbach: Der Einfluß des "Code Napoléon" auf das Rechtsbewußtsein in den Ländern des rheinischen Rechts (Ảnh hưởng của "Code Napoléon" đến nhận thức về luật pháp trong các nước của luật vùng Rhein), in: Joseph Jurt (Hg.), Wandel von Recht und Rechtsbewußtsein in Frankreich und Deutschland, Berlin 1999, S. 133-141
  • Werner Schubert (Hg.), 200 Jahre Code civil: Die napoleonische Kodifikation in Deutschland und Europa (200 năm Code civil: Bộ luật Napoleon trong nước Đức và châu Âu), Köln u.a. 2005

Liên kết ngoài

  • Legifrance của chính phủ Pháp có toàn văn Bộ luật Dân sự Pháp (tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha)
  • Nguon : Wikipedia 
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ TRONG KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
http://nhantu.net/TrietHoc/VVDNT/VVDNT18.htm
Xưa nay, nhiều người thường cho rằng Khoa Học có cái nhìn khác biệt với các nhà Huyền học, Đạo học. Đã đành, không phải là các khoa học gia đều có cùng một đường lối như nhau, nhưng cũng đã có những khoa học gia chứng minh được rằng các nhà huyền học (Mystics) và khoa học gia đã nhận ra rằng Vũ trụ này có một bản thể duy nhất. Người đã làm được chuyện này là nhà vật lý Fritjof Capra. Năm 1976, ông cho in quyển The Tao of the physics. Sách này đã được nhiều nhà xuất bản in lại. Mới đầu là nhà xuất bản Shambala, rồi đến Quality Book Club rồi đến Bantam Edition. Từ 1976 đến 1977, Shambala in lại sách 4 lần. Quality Book in lại 1 lần năm 1977. Bantam từ 77 đến 84 in lại tất cả 9 lần.

Fritjof Capra viết rằng khoảng năm 1970, một hôm ông ngồi ngoài bãi biển đã chứng kiến thấy vũ trụ chuyển hóa trong ông và quanh mình ông, như một vũ điệu vũ trụ. Ông thấy cát, đá, nước và không khí là những phân tử, nguyên tử rung động, va chạm lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau. Ngoài ra còn thấy những luồng vũ trụ tuyến thường xuyên phả qua làn không khí, gây nên những va chạm, những sự hủy diệt lẫn nhau. Trước đây, ông chỉ biết chuyện này trên lý thuyết, trên toán học. Bây giờ ông mới thấy thế giới quanh ông và trong thân thể ông nhảy nhót theo nhịp điệu vũ trụ. Ông cảm động đến rơi lệ và ghi chép những cảm giác ông có được xuống giấy tờ. [1]

Ông không những là một khoa học gia mà còn mê say triết học và huyền học Ái Châu. Ông càng ngày càng nhìn thấy rõ sự tương đồng giữa những cái nhìn của các nhà huyền học Bà La Môn, Phật giáo, Kinh Dịch và Lão giáo với những khám phá mới nhất của khoa Vật Lý Lượng tử (Quantum Physics) hiện đại. Ôïng chủ trương vạn vật trong vũ trụ này đồng thể và hỗ tương ảnh hưởng lẫn nhau (The unity of all things and mutual interrelation of all things). Bản thể rốt ráo ấy của Vũ trụ, Bà la Môn gọi là Brahman, Phật giáo gọi là Dharmakaya, Tathata hay Suchness (Pháp thân, Chân Như), Lão giáo gọi là Đạo.

Khoa học hiện đại cũng chủ trương y thức như vậy.[2]

Ông đã dành cả một chương The Unity of all things để bàn về Vạn vật nhất thể. Ông nhận định đại khái rằng trong đời sống bình thường, con người không biết rằng vạn vật là nhất thể mà cho rằng vũ trụ này có nhiều sự vật khác nhau, có nhiều chuyện khác nhau. Sự phân biệt này tuy cần cho đời sống hằng ngày, nhưng không đúng với thực tại. Sự phân tách này là do sự biện phân sắp xếp của khối óc chúng ta mà thôi. Tưởng rằng vũ trụ này sai biệt lẫn nhau, và có nhiều biến cố khác nhau là chuyện huyễn vọng (illusion, maya).

Đạo Bà La Môn và đạo Phật cho rằng huyễn vọng đó sinh ra là do Vô minh (Avidya) hay là sự dốt nát (ignorance) của ta. Khi con người biết định tĩnh (Samadhi), sẽ tìm thấy sự nhất quán của vũ trụ.

Sự nhất quán của vũ trụ là đặc điểm của các nhà huyền học, và cũng là sự mặc khải của khoa vật lý học hiện đại. Càng đi sâu vào lòng nguyên tử, vào đáy lòng vật chất, ta càng thấy điều đó hiện ra. Càng sánh Khoa học hiện đại với triết học Á Đông ta càng thấy vạn vật là nhất thể, và vũ trụ này có liên quan mật thiết với nhau.[3] Ông trình bày vấn đề trên rất khéo léo.

Trước tiên, ông trình bày cái nhìn của khoa học hiện đại.

Sau đó ông trình bày cái nhìn tương tự của Bà La Môn, của Phật Giáo, của Trung Hoa, của Kinh Dịch, của Lão Giáo, của Zen.

Tiếp đến, ông cho thấy những điểm tương đồng về Nhất thể, về Siêu xuất âm Dương, về Không gian Thời gian, về Vũ trụ sinh động, về Sắc Không, về Vũ điệu vũ trụ v.v...

Đại khái ông cho rằng vũ trụ này là nhất thể. Chỉ nhìn thấy mâu thuẫn là cái nhìn phiến diện. Không gian và thời gian là một, không thể tách rời nhau. Vũ trụ này biến thiên, chuyển động chứ không phải ù lì, chết chóc, rời rạc. Sắc không là một; và tất cả chúng ta đều đang nhảy múa trong một vũ điệu có lớp lang tiết tấu của vũ trụ; ông đi đến một cái nhìn chung như vậy dĩ nhiên vì ông vừa là một nhà huyền học (Mystic) vừa là một nhà khoa học.

. . . 
Khoa học hiện đại
Ba chục năm đầu thế kỷ XX, đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn của Vật lý. Người ta tìm ra được Thuyết tương đối, và Vật lý nguyên tử. Hai sự kiện này đã phá tan nhãn quan của Newton.
Ngày nay không còn không gian và thời gian tuyệt đối nữa, không còn có những hạt nguyên tử riêng rẽ nữa, không còn nói được rằng vật chất hữu hình được khiên dẫn bằng những nguyên nhân cố định, không còn nói được rằng có thể biết thế giới một cách khách quan. Vật lý học mới không chấp nhận cái nhìn trên nữa.
Người có công xây dựng Vật lý học mới là Albert Einstein (1879–1955). Einstein đưa ra thuyết Tương đối (Theory of Relativity), và đóng góp vào thuyết lượng tử (Quantum Theory). Năm 1905, Einstein đưa ra thuyết Tương đối hẹp (Special theory of Relativity) hợp nhất khoa Cơ Học (Mechanics), và khoa Điện động lực học (Electrodynamics). ông cũng còn gắn liền thời gian với không gian, coi thời gian là chiều kích thứ tư của vũ trụ. Einstein cho rằng vạn sự tùy theo sự đo lường của mỗi người trở nên khác nhau. Einstein còn cho rằng vật chất là năng lực, theo phương trình E=mc2. Năm 1915 ông đưa ra thuyết Tương đối rộng (General Theory of Relativity), và chủ trương sức hấp dẫn có thể làm cong không gian và thời gian. Như vậy từ nay không còn không gian và thời gian tuyệt đối của Newton nữa. Từ nay cũng không còn không gian trống rỗng nữa (Empty space).
Hai bác học tiền phong khác có công xây dựng khoa Vật lý học lượng tử là Werner Heisenberg với học thuyết Matrix Mechanics mà ông phát minh ra năm 1925, và Erwin Schrödinger với học thuyết Wave mechanics của ông. Rồi người ta tìm ra được quang tuyến X, tìm ra được các chất phóng xạ (Radioactive substance) và thấy rằng nguyên tử có thể biến hình, và vật chất có thế thay hình đổi dạng được. Người ta thấy Nguyên tử còn sinh ra được các tia Alpha, Beta, Gamma. Ernest Rutherford (1871–1927) đã dùng tia Alpha để bắn phá trong lòng sâu nguyên tử.
Sau đó lại khám phá thêm rằng nguyên tử được sắp xếp như những hành tinh, và người ta tìm ra được các định luật về hóa học dựa trên vật lý nguyên tử.
Năm 1920 nhiều khoa học gia góp sức để tìm ra các định luật đó như Niels Bohr người Đan Mạch, Louis de Broglie người Pháp, Erwin Schrödinger và Wolfgang người Áo, Paul Dirac người Anh, Werner Heisenberg người Đức đã chung sức nhau để tìm ra những định luật trên. Các nhà khoa học trên thấy càng đi vào lòng vật chất càng thấy vạn vật khó hiểu, và mâu thuẫn. Tại sao ánh sáng lại vừa là phân tử vừa là ba động. Max Planck (1858–1947) nhận ra rằng sức nóng chẳng hạn không phả ra đồng đều nhưng từng đợt, mà ông gọi là những túi Năng lực (Energy packets). Einstein gọi túi năng lực đó là quantum. Einstein còn cho rằng không cứ gì là ánh sáng mà tất cả điện từ cũng đều phả năng lực ra như vậy. Thế là chúng ta bắt đầu đi vào Vật Lý Lượng tử (Quantum Physics). Chúng ta không biết chắc bao giờ Ánh Sáng là phân tử và khi nào nó là ba động, chỉ đoán chừng được mà thôi. Đó là Nguyên lý bất định của Heisenberg [13].
Vật lý lượng tử như vậy đã phá tan nhãn quan của Newton, và không còn có những vật cứng cố định, những định luật tất định nữa. Đi vào lòng vũ trụ, lòng vật chất, nay chỉ còn thấy những ba động, sự vật tương liên tương ứng lẫn nhau mà thôi. Thuyết lượng tử cho ta thấy bản chất vũ trụ là một, và không còn có những nguyên tử cố định, những viên gạch căn bản xây nên vũ trụ. Xưa người ta tưởng Nguyên tử là nhỏ nhất. Té ra không phải vậy. Nguyên tử còn có Proton, Positron, Electron. Meson, Baryon v.v...
Năm 1935, người ta tưởng Nguyên tử chỉ có sáu tiểu nguyên tử, đến năm 1955 người ta tìm ra được 15 tiểu nguyên tử, nay ta đã tìm ra được hơn 200 rồi.
Như vậy trong Vật lý hiện đại, vũ trụ này được coi là cái gì linh động, là cái gì toàn khối, toàn bích, và người quan sát không tách mình ra ngoài nó được. Từ nay không còn không gian, thời gian riêng rẽ, không còn sự vật riêng rẽ. Cái nhìn trên rất giống cái nhìn của các Đạo gia Á Châu. Sau khi chứng minh đại loại như vậy rồi, ta đã thấy Capra đi vào chi tiết để chứng minh. 
Tóm lại, vật lý học lượng tử chủ trương hoàn toàn ngược lại với Vật lý cổ điển Newton.
Nó chủ trương:
1. Không làm gì có những nguyên tử vững chắc cố định, mà nay chỉ còn có những ba động có thể xảy ra.
2. Không có những định luật tất định như trong Vật lý Newton, nhưng trong thế giới Vật lý lương tử, vẫn có tự do.
3. Không làm gì có thế giới khách quan không cần đến người quan sát. Nhưng trong vật lý lượng tử, vật bị quan sát bao giờ cũng liên quan đến người quan sát.
4. Cái thế giới vạn thù của Newton đã bị vượt qua, và trong vật lý lượng tử, tất cả đều là một.
5. Vật lý học Newton, chỉ có giá trị cho cái thế giới hình tướng bên ngoài. Còn vật lý lượng tử thì đi sâu vào lòng nguyên tử, lòng vật chất.[14]
Như vậy, Vật lý học Newton nhìn thấy Vạn, và đã đi từ Nhất đến Vạn, Còn Vật lý Lượng tử nhìn thấy Nhất, và đã đi từ Vạn về Nhất. Nhìn thấy Vạn thời ai cũng làm được, nhưng nhìn thấy Nhất xưa nay thực không mấy ai.
Về phía Đạo Giáo chỉ có một số Đạo Gia thượng thặng mới nhìn thấy Nhất.
Về phía Khoa Học gia, ta thấy phải có nhiều người hợp lại mới tìm ra được Nhất. Ta thấy chỉ có một số khoa học gia thượng thặng như Einstein, Max Plank, Werner Heisenberg, Schrödinger, Rutherford, Niels Bohr, Louis De Broglie, Eugene Wigner, Fritjof Capra v.v... mới làm nổi chuyện này. Werner Heisenberg khi quyết tâm từ giã Vật Lý Newton để đi tìm con đường vào khoa Vật lý lượng tử đã ví mình như Kha Luân Bố đi tìm Tân Thế Giới. ông viết đại khái rằng: Cái hay của Kha Luân Bố chính là vì đã dám rời bỏ vùng mình đã biết, và giương buồm tiến về phía Tây, vượt xa điểm mà lương thực đã dự trữ để đủ trở về. Đối với với Khoa học cũng vậy, nếu muốn tìm ra đất mới, thì không thể nào cứ mãi ở yên trong bến bờ của những học thuyết sẵn có mà phải chịu liều vọt bước ra đi.[15]
Tôi thấy Capra hợp nhất được khoa học và đạo học không phải là công lao nhỏ. Nó có thể giúp cho nhiều học giả tới nay chưa có lập trường sẽ hồi tâm chuyển hướng.
Vạn vật là một đã được Eckhart xác định. Eckhart viết: Mọi cái mà con người thấy như là Vạn thù bên ngoài, thật ra chỉ là một. ở đây, cọng cỏ, gỗ, đá mọi sự đều là một. Đó là cái gì thâm sâu nhất.[16]
Thảo nào mà Dịch kinh từ mấy nghìn năm nay đã nói âm Dương tương thôi nhi sinh biến hóa. Và âm Dương luôn biến từ cái này sang cái kia, không có gì là cố định: rốt ráo chỉ còn có Hư Vô, Không Tịch.
Niels Bohr đã nhận Hình Thái cực làm phù hiệu của ông, và công nhận rằng Contraria sunt complementaria (Opposites are complementary), tức là không có gì là mâu thuẫn nhau cả.
Tuy khoa học đã tìm ra được rằng vạn vật là nhất thể, như không biết được rằng nhất thể đó là gì. Ngược lại các đạo gia đã thấy rằng nhất thể đó là Thực tại tối hậu (Ultimate Reality). Người thì gọi đó là Brahman, là Chân Như, là Pháp Thân, và Đạo, là Trời. Eckhart gọi đó là Thần của Hồn (The Spirit of the Soul); Hugh of St. Victor gọi là Mũi nhọn tâm hồn (Acumen mentis), Thánh Teresa of Avila gọi đó là Tâm Điểm linh hồn (Center of the Soul); thánh Jerome gọi đó là Tàn lửa linh hồn (Spark of the Soul); Upanishads gọi đó là Atman (Thou art that; it is Atman (Self) which is Brahman. Ấn Độ cũng còn gọi đó là Khí Prana, hay Purusha, hay Atman hay Brahman v.v... Như vậy Prana cũng tương đương với chữ Thần (Spirit, hay Pneuma). Tuy nhiên các đạo gia đều đồng thanh cho rằng cái thực tại tối hậu ấy hay con người tối hậu ấy, ta phải tìm cho ra ngay trong tâm thần của ta, bằng Thiền định, bằng Yoga hay bằng Kundalini. Phương tiện không quan trọng. Điều quan trọng là cái hiểu biết rốt ráo của mình.[17]
Ta phải biết chúng ta ai cũng có 2 phần:
Một phần hằng cửu, bất biến. Đó là Bản thể chúng ta (Noumenon, Essence).
Một phần là biến thiên, vô thường, vô định. Đó là tất cả những hiện tượng biến thiên trong ta (Phenomenon, Accidents). Bản thể vĩnh cửu là Niết bàn. Ảo hóa biến thiên là Luân hồi, sinh tử.
Chúng ta phải biết dùng đời chúng ta, dùng mọi khả năng biến hóa cúa chúng ta, để mà thoát khỏi vòng luân hồi ảo ảnh, để mà tìm lại được Chân Nguyên, Chân thể của Chúng ta, đó là Đạo, là Trời. Ta có thể gọi đó là Phối thiên (Mystical Union with God), là đạt đạo Yoga (Finding Yoga), là đắc Đạo (Finding the Tao), hay Giác Ngộ (Enlightenment, hay Self-Realisation). Trong dĩ vãng đã có vô số người lên tới trình độ này.[18]
Mới hay ta sinh ra đời không phải là vô mục đích. Rõ ràng là ta phải biết dùng đời ta để biến thiên, tiến hóa. Chúng ta là những con người Biến Thiên (Becoming) và Tiến Hóa. Gopi Krishna nói: Chúng ta, bạn cũng như tôi, chúng ta phải tiến để thực hiện chân ngã chúng ta, để cho tâm hồn ta nhận ra được và thực hiện được bản thể thần minh của chúng ta...[19]
Ước gì chúng ta kẻ trước người sau đều bước được vào con đường này. Đó là bổn phận của mỗi người chúng ta. Không làm được nó kiếp này, sẽ làm trong các kiếp sau.
Tôi nhớ lời Kinh Upanishads:
Từ ảo ảnh xin đưa tôi về thực tại,
Từ tối tăm xin đưa tôi về ánh sáng,
Từ tử vong, xin đưa tôi về bất tử.[20]
Đó cũng chính là nguyện vọng của tôi và của cuốn sách nhỏ bé này.