Monday, August 1, 2022

 

Chiến dịch Ia Drang 1965

Võ Trung Tín

https://www.bhmpics.com/wallpapers/battle_of_ia_drang-1680x1050.jpg

Advertisements
REPORT THIS AD

Trận Ia Drang (từ 28 Tháng Mười, 1965 đến 18 Tháng Mười Một, 1965)

Sau khi liên quân Việt-Mỹ đánh bật Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) ra khỏi vòng đai căn cứ Pleime và giải vây cho đơn vị trú phòng, ngày 27 Tháng Mười, 1965, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đã phối hợp với Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Quân Khu 2 mở một cuộc hành quân quy mô tổng truy kích ba trung đoàn 32, trung đoàn 33 và trung đoàn 66 CSBV ở vùng núi Chu Prong. Nỗ lực chính trong cuộc hành quân này là một số đơn vị bộ chiến của Sư Đoàn 1 Không Kỵ (1st Air Calvary Division) Hoa Kỳ, trong đó có năm tiểu đoàn của các Trung Đoàn 7, 8, và một thành phần của trung đoàn 9. Cuộc hành quân xuất phát từ Pleiku trải rộng về hướng biên giới Miên Việt. Chỉ huy trực tiếp lực lượng xung kích của cuộc hành quân giai đoạn đầu là Đại Tá Harlow Clark, lữ đoàn trưởng của Lữ Đoàn I thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Nhiệm vụ chính của Lữ Đoàn là thực hiện các cuộc hành quân bộ chiến theo phương thức các đơn vị tác chiến được trực thăng vận (không kỵ) nhảy xuống trận địa từ trực thăng của các Đại Đội Trực Thăng cơ hữu để truy lùng và tiêu diệt địch quân.

Advertisements
REPORT THIS AD

Giai đoạn I: (All the Way: từ ngày 28 Tháng Mười, 1965 đến ngày 8 Tháng Mười Một, 1965)

Ngày 28 Tháng Mười, 1965, Lữ Đoàn I Không Kỵ được trực thăng vận chở đến phía Tây trận địa Plei Ia Priêng, Quynh Kla và suối Ia Mơ, nơi mà chiến đoàn VNCH trước đây bị phục kích trong trận công đồn đã viện Pleime của CVBV. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng tại đồn điền trà Catecka, nằm trên quốc lộ 19 và cách quốc lộ 14 độ 4km. Vùng hành quân rộng lớn đến 120 km2 được chia làm 3 khu vực nhỏ mang tên ba vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Hoa Kỳ: Shoe, Jim, Earl.

Ngày 1 Tháng Mười Một, 1965 lúc 7 giờ 30, các trực thăng thám thính phát giác sự hiện diện của cán binh Việt Cộng khoảng một trung đội lẩn khuất trong vùng thung lũng tại 10 cây số Tây Nam của trại Pleime. Lữ Đoàn 1 Không Kỵ ngay lập tức thả xuống một Đại Đội Trinh Sát chận đánh. Sau một cuộc chạm súng, quân Cộng Sản bị bất ngờ nên hốt hoảng bỏ chạy để lại 20 xác chết cùng 19 tên bị bắt sống. Cuộc hành quân tảo thanh liền được khai triển tiếp theo và quân Mỹ đã khám phá một bệnh viện dã chiến cấp Trung Đoàn tại phía Tây của trại Pleime khoảng 9km. LĐIKK đã đột kích bắt gọn toàn thể nhân viên và tịch thu nhiều tấn các trang bị, thuốc men và dụng cụ giải phẫu chế tạo tại các nước Cộng Sản còn mới nguyên tổng cộng trị giá khoảng $40,000.

Advertisements
REPORT THIS AD

Đến chiều, trong khi việc di tản chiến lợi phẩm bằng trực thăng tiếp diễn, một đơn vị Cộng quân cấp Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 33 âm thầm di chuyển tới gần và mưu toan bao vây và tấn công các vị trí đóng quân của Mỹ ngay tại bệnh viện (CSBV muốn cứu thoát một đại tá Cộng Sản, có thể là Đại Tá Hà Vi Tùng, đang bị thương nằm điều trị tại đây). Lữ Đoàn 1 KBKV tức thời điều động các đơn vị bao vây khu vực. Giao tranh ác liệt kéo dài suốt năm giờ liền. Đến gần sáng Cộng quân rút lui bỏ lại tại trận 250 xác, 44 tù binh, phỏng đoán có đến 200 bị thương rút về hướng biên giới Miên Việt. Trong trận nầy, phía Hoa Kỳ có 12 binh sĩ tử trận, 51 người bị thương, 8 trực thăng bị hư hại. Chiều ngày 2 Tháng Mười Một, các đơn vị Mỹ rút khỏi khu bệnh viện và tiếp tục truy lùng tàn quân Cộng Sản quanh quẩn lẩn khuất đâu đó.

Khu vực hành quân giai đoạn 1 của LĐIKK Hoa Kỳ

Advertisements
REPORT THIS AD

Chiếm được bệnh viện dã chiến của địch là một khám phá lớn của Sư Đoàn Không Kỵ, ngoài việc hủy diệt các lực lượng Việt Cộng, nó cũng đã cung cấp các tài liệu tình báo quý giá, đặc biệt là một bản đồ ghi rõ các đường tiếp liệu và tiến quân trong chiến dịch của CSBV.

Ngày 3 Tháng Mười Một, 1965, lúc 9 giờ đêm, Tiểu Đoàn 1/9 KBKV hành quân phục kích ngay trung tâm của vùng Chu Prông – Ia Drang đã chạm địch và tiêu diệt một đơn vị vận chuyển vũ khí cấp Đại Đội của Trung Đoàn 33 CSBV. Đến 9 giờ đêm, Tiểu Đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66 CSBV (Trung đoàn nầy vừa mới xâm nhập vào Nam từ Tỉnh Quảng Ninh sau hai tháng lội bộ) trở lại bao vây và tấn công Tiểu Đoàn 1/9 tại bãi đáp Mary, lực lượng hành quân chống trả mãnh liệt, giao tranh kéo dài đến 4 giờ sáng, Việt Cộng rút lui bỏ lại 112 chết (đếm được xác), hơn 200 khác ước tính chết và bị thương và 30 vũ khí tịch thâu.

Advertisements
REPORT THIS AD

Sáng ngày 4 Tháng Mười Một, 1965, hai Đại Đội B và D của Tiểu Đoàn 1/8 KBKV được trực thăng vận đến thay thế các đơn vị chạm địch từ hôm qua để truy kích địch quân và thu dọn chiến trường tìm thấy 22 xác Việt Cộng thuộc Trung Đoàn 33 chính quy.

Trong khi đó, Đại Đội B của TĐ2/12 KBKV cũng chạm địch tại gần vị trí bệnh viện đã khám phá một kho chôn giấu vũ khí quân trang quân dụng và thực phẩm tại 5 cây số phía Tây của Trại Pleime, gần cạnh sông Ia Meur. Việt Cộng bỏ lại tại trận địa 72 xác chết và một tù binh thuộc Trung Đoàn 66/SĐ304 chính quy CSBV vừa vượt biên giới vào Nam. Về phía Mỹ có 4 tử thương, 25 bị thương.

Lực lượng hành quân tiếp tục truy kích địch qua phía Bắc của bệnh viện dã chiến của Việc Cộng, các cuộc đụng độ gia tăng, Việc Cộng bắn sẻ vào các đơn vị của Tiểu Đoàn 2/8. KBKV, chiến sự giảm cường độ khi trời tối. Trong khi đó các tù binh bắt được khai báo Trung Đoàn 33 đang di chuyển về núi Chu Prong.

Advertisements
REPORT THIS AD

Ngày 5 Tháng Mười Một, 1965, Tiểu Đoàn 2/8 Cavalry được lịnh hành quân chận địch và Pháo binh yểm trợ được di chuyển từ Cavalair đến Falcon. Nhiều trận đụng độ đẫm máu xảy ra tại phía Bắc của sông Ia Meur giữa các đơn vị của Tiểu Đoàn 2/8 KBKV với Tiểu Đoàn 6 Trung đoàn 33 Cộng Sản kéo dài tới ngày 7 Tháng Mười Một mới chấm dứt. Tiểu Đoàn 6 thuộc Trung Đoàn 33 gần như bị tiêu diệt với 77 xác bỏ lại chiến trường (đếm được xác) gần 400 khác ước tính bị giết và bị thương. Mỹ phải dùng đến 3 chiếc Chinook để chở chiến lợi phẩm.

Từ ngày 6 Tháng Mười Một, 1965, Lữ Đoàn 1 KBKV tập trung cả 3 Tiểu Đoàn trực thuộc càn quét vùng chạm địch có diện tích khoảng 2,500 km2 trong ba ngày liên tiếp, hy vọng tiêu diệt các Trung Đoàn 32 và Trung Đoàn 33 CSBV, nhưng trong các cuộc đụng độ thực hiện trên, không thấy tăm hơi Trung Đoàn 32. Mặc dù con số tổn thương Việt Cộng, gồm cả số trong đợt đầu lên tới 1,500 người, lại tìm thấy thêm một trung đoàn – Trung Đoàn 66 – đã được đưa thêm vào thế trận.

Advertisements
REPORT THIS AD

Giai đoạn II: (Silver Bayonet: từ ngày 9 Tháng Mười Một, 1965, đến 17 Tháng Mười Một, 1965)

Cuộc hành quân của Lữ Đoàn I Không Kỵ không đánh trúng được tâm điểm trú ẩn của lực lượng CSBV, BTL lực lượng tham chiến Hoa Kỳ dựa vào các thông tin tình báo thiếu sót nên đánh giá có thể là các đơn vị của Trung Đoàn 32 đã chuồn mất về hướng Đông, do đó Tướng Kinnard cho các đơn vị thuộc SĐIKBKV tiến về phía Đông và Nam của Trại LLĐB Pleime để truy lùng quân địch. Ngày 9 Tháng Mười Một, 1965, LĐ3KBKV do Đại Tá Thomas “Tim” Brown chỉ huy được lịnh không vận vào vùng để thay thế LĐ1 của Đại Tá H.Clark và cuộc hành quân của LĐ3KBKV được chuyển trọng tâm từ Tây sang Đông bắt đầu vào ngày 10 Tháng Mười Một, 1965.

Advertisements
REPORT THIS AD

Trong khi tin tức tình báo VN của Quân Đoàn II thì cho biết Trung đoàn 66 CSBV gồm 3 Tiểu Đoàn 7, 8 & 9 vừa mới từ Bắc Việt xâm nhập vào Tây Nguyên đang ém quân đóng thành hàng dọc theo sông Ia Drang (làng Tung, phía Tây của Plei Me) mà chờ lệnh sẽ rùng rùng ào ra. – Trung Đoàn 32 đang ở phía Bắc sông Ia Drang trong cùng vùng – Trung Đoàn 33 cũng đang ém quân tại các vị trì kế cận làng Anta (theo danh xưng Việt Cộng), các cánh quân nầy đều đang ở vị trí phía Đông của rặng núi Chu Prông (tức là phía Tây của Plei Me).

Theo cung từ của một sĩ quan chính trị viên hàng binh (Thiếu Úy CSBV Bùi Văn Cường – đã đầu hàng lúc 8 giờ 44 ngày 7 Tháng Mười Một): Sáng ngày 11 Tháng Mười Một, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương B3 của CSBV sẽ triệu tập một buổi họp các trung đoàn trưởng, kể cả chỉ huy trưởng của Trung Đoàn 66 mới đặt chân tới chiến trường để điều nghiên kế hoạch cho một cuộc tái tân công một mặt trận mới. Mục tiêu chính của cuộc tấn công nầy là hủy diệt trại LLĐB Plei Me. Vì tin chắc các lực lượng hành quân của Mỹ và VNCH đã đánh mất vết tích của các đơn vị của họ, Mặt Trận CSBV của Chu Huy Mân khởi động thế trận nầy để lấy lại ưu thế bằng một cuộc tập kích lần thứ hai vào trại LLĐB Pleime được ấn định vào ngày 16 Tháng Mười Một với sự tham dự của cả ba Trung đoàn cũng như một tiểu đoàn pháo 120 ly và một Tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14.5 ly. Cả hai đơn vị này đang trên đường xâm nhập và dự tính sẽ tới nơi kịp thời.

Advertisements
REPORT THIS AD

Nhưng kế hoạch của Chu Huy Mân sẽ chẳng bao giờ có dịp được đem ra thực hiện vì chỉ vài ngày sau đó, ngày 13 Tháng Mười Một, 1965, BTL Sư Đoàn KBKV đã sử dụng tin tức tình báo của VNCH cung cấp về vị trí của quân Việt Cộng ẩn nấp tại rặng núi Chu Prong và quyết định đánh vào nơi mà quân CSBV đang nằm phục kích chờ đó. Rặng Chư Prong cao độ 720 mét có thể quan sát kiểm soát quanh vùng Ia-Drang. Lữ Đoàn 3 KBKV đã đánh thốc trở lại hướng Tây

Ngày 12 Tháng Mười Một, 1965, lúc 1 giờ 15, một đơn vị đặc công CSBV gồm 26 bộ đội trong toán tiền kích trang bị 4 súng cối có du kích địa phương hướng dẫn, đột kích thử sức vào hậu cứ Lữ Đoàn 3 tại đồn điền trà Catekca, (mặc dầu có một thiếu tá Dù VNCH đã cảnh cáo là quân của CSBV thường đánh sau lưng Bộ Chỉ Huy trong lúc đơn vị vừa hoán đổi). Nhưng nhờ có chó canh phòng quân khuyển nên cuộc đột kích này không thành công. Kết quả địch quân đã bỏ xác tại trận 6 tên, bên Hoa Kỳ chết 7 người và bị thương 23 người. Tìm được hơn 100 gói bánh chất nổ bộc phá của địch bỏ lại để liệng vào trực thăng và bồn nhiên liệu quanh đó.

Advertisements
REPORT THIS AD

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/5d/Iadrang-map.jpgPhóng đồ trận đánh tại Lz Xray

Advertisements
REPORT THIS AD

Bãi đáp X-Ray ngày 14 Tháng Mười Một, 1965

Chu Prong với địa thế núi rừng trùng điệp, căn cứ của bộ tư lệnh B3 tiền phương gần sát biên giới Miên-Việt có các đơn vị yểm trợ với nhiều kho tiếp liệu. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 66 và Tiểu Đoàn 7 chiếm một khu lều trại nối tiếp nhau ở mặt phía Đông, Tiểu Đoàn 8 đóng ngay trong thung lũng Ia Drang cách đó 8km. Mặc dù mỏi mệt và đói khát vì đoạn đường bôn tập, bộ đội CSBV phải làm ngay lều trại, đào công sư phòng thủ, chuyên chở gạo nước đạn dược từ các hầm tiếp vận của mặt trận B3. Trung đoàn nầy được coi là đầy đủ quân số.

Mỗi tiểu đoàn CSBV có khoảng 500 bộ đội, mỗi đại đội có từ 100 đến 120 người, trang bị súng trường tự động AK-47, SKS, tiểu liên, trung liên, súng phóng lựu RPG, súng cối 82 ly và súng không giật. Phần lớn các bộ đội chưa quen với địa thế.

Advertisements
REPORT THIS AD

Sáng sớm ngày 14 Tháng Mười Một, vào lúc 4 giờ rưỡi sáng, Sư Đoàn 1 KBKV đã phát giác ra vị trí của Tiểu Đoàn 9 thuộc Trung Đoàn 66 tại sườn núi Chu Prông. Do đó , Tiểu Đoàn 1/7 KK với quân số khoảng 450 người, do Trung Tá Harold G. Moore chỉ huy được trực thăng vận vào vị trí bãi đáp X-Ray dưới chân rặng núi Chu Prong với nhiệm vụ tìm và diệt địch. (Trung Tá Harold G.Moore, 42 tuổi, xuất thân trường võ bị West Point lớp 1945)

Địa thế vùng này không nhiều cây to nhưng khá um tùm và đặc biệt nhiều cỏ voi cao ngang đầu người bao quanh nhiều gò mối khổng lồ, to như một căn nhà chòi.

Sau 30 phút, hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn, không quân cày nát bãi đáp, 16 chiếc trực thăng chuyển quân được trực thăng võ trang hộ tống bắt đầu đổ Đại Đội B/1/7 (quân số 109 người) xuống bãi đáp Xray, cách Pleime khoảng 14km về phía Tây. Bãi đáp chỉ tiếp nhận mỗi đợt bốn chiếc trực thăng đổ quân, đến 2 giờ chiều, sau hơn 3 tiếng chỉ chuyển vận được 3/4 tiểu đoàn. Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Harold G. Moore, thân chinh cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, đại đội xung kích – Đại Đội B – đổ bộ đúng 10 giờ 48. Đại Đội Trưởng Đại Đội B, Captain John Herren lo thiết lập an ninh bãi đáp, ra lệnh các Trung Đội lục soát các khu vực chung quanh và đã tập kích bất ngờ vào vị trí Tiểu Đoàn 9/66 trong thế chưa sẵn sàng ứng chiến. Vào khoảng 11 giờ 20, Tiểu Đội của Trung Sĩ John Mingo bất ngờ bắt được một tù binh CSBV (không võ trang), tên này khai là chỉ ăn chuối thay cơm trong năm ngày qua và cho biết có ba Tiểu Đoàn thuộc Trung đoàn 66 CSBV hiện đóng quanh núi Chu Prong.

Advertisements
REPORT THIS AD

Lúc 12 giờ 10, các Đại Đội A, quân số 106 người do Đại Úy Tony Nadal chỉ huy, và C Captain Bob Edwards chỉ huy, cũng lần lượt được thả xuống. Sau khi đổ quân các đơn vị được bung rộng ra lục soát chung quanh bãi đáp X-ray. Trung Tá Moore điều động Đại Đội C (Charlie) thủ mặt Tây, ĐĐ A (Alfa) thủ phía Tây Bắc, và ĐĐB (Braovo) thủ mặt Đông Bắc. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn trấn thủ phía Đông Nam. Một dòng suối cạn chạy dài từ Tây Nam ôm sát bãi đáp lên hướng Đông Bắc gần tới bãi đáp Albany xa khoảng 3 dặm.

Khi chiếc trực thăng đầu tiên bay đến, các tay chỉ huy Trung Đoàn 66 và Tiểu Đoàn 9 CSBV đang đi điều nghiên địa thế ở bờ Sông Ia Drang, cách nơi đóng quân hàng chục cây số. Chính ủy trung đoàn 66 là Nguyễn Ngọc Châu và tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 9 cũng không có mặt ở Bộ Chỉ Huy.

Advertisements
REPORT THIS AD

Từ Bộ Tư Lệnh mới thiết lập trên đỉnh Chu Prong, Nguyễn Hữu An chỉ huy mặt trận B3 tiền phương tỏ ra mất tinh thần khi thấy máy bay và pháo binh Mỹ tàn phá nơi đóng quân Tiểu Đoàn 9 với những đợt trực thăng nhào xuống phía bên kia núi.

Dưới trận mưa bom, các trạm tiền tiêu của tiểu đoàn nầy đã bị tiêu diệt gọn, Tiểu Đoàn 9 không phát hiện ra là lính Mỹ đang tiến tới, cho đến khi còn cách độ 100 mét họ mới biết. Quân Mỹ chia thành hai cánh, một tiến thẳng vào đại đội 11 của Tiểu Đoàn 9 và một đánh thẳng vào bộ chỉ huy tiểu đoàn.

Khoảng 12 giờ 45, các trung đội tiền đồn của Đại đội B (1st Platoon, Lieutenant Al Devney; 2nd Platoon Lieutenant Henry Herrick and the 3rd Platoon, Lieutenant Dennis Deal) bắt đầu chạm địch trong một cuộc đọ súng với tầm mức tương đối nhẹ và Cộng quân cũng bắt đầu pháo vào vị trí đóng quân.

Advertisements
REPORT THIS AD

Cuộc nổ súng bắt đầu, Tiểu Đoàn 9 CSBV gần như bị tê liệt. Riêng đại đội trưởng Đại Đội 11 cố gắng chống đỡ cuộc tấn công, nhưng chính trị viên tiểu đoàn hoảng sợ, người tạm thay tiểu đoàn trưởng chỉ huy, hắn chôn chân dưới hầm, tiểu đoàn coi như không có người chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng từ bờ Sông Ia Drang chạy trở về đơn vị, gặp Đại Đội 11 khoảng một giờ sau, nhưng không liên lạc được với ai trong đơn vị.

https://s-media-cache-ak0.pinimg.com/originals/86/82/af/8682af18b767826d2b4d7b3e39a08d4f.jpgTrung Tá H.G. Moore

Advertisements
REPORT THIS AD

(Trận đánh tại bãi đáp X-Ray là trận đánh kinh hoàng nhất cho đời Trung Tá H.G. Moore mà sau nầy ông thăng lên cấp thiếu tướng vẫn không tài nào quên được, Tiểu Đoàn 1/7 mà ông là tiểu đoàn trưởng, đơn vị chủ yếu trong trận đánh X-Ray mà phim ảnh Hollywood gọi là “We were Soldiers” sau 37 năm họ dựng lại một đoạn đánh để đời của Trung Tướng H.G Moore.)

Vào lúc 2 giờ chiều, Nguyễn Hữu An ra lịnh cho hai tiểu đoàn 7 & 9 của Trung Đoàn 66 đồng loạt tấn công ba mặt vào bãi đáp X-Ray. Ngay lúc đó, Đại Đội Trưởng Đại đội B báo cáo bị ít nhất hai đại đội địch tấn công. Cộng quân tập trung hỏa lực bắn xối xả vào hai trung đội đi đầu và đã gây thiệt hại khá nặng cho hai trung đội này và Trung Đội 2B1/7 của Trung Úy Henry Herrick bên cánh phải đả đuổi theo một đám địch quân ẩn hiện phía cạnh sườn phải và đã tiến xa hơn 100 thước, nên bị tách rời khỏi đại đội. Khi tới một khoảng trống, trung đội bất ngờ chạm trán hơn 50 địch quân. Herrick bình tĩnh chỉ huy trung đội tấn công và gây thương vong cho hơn phân nửa số địch mà không bị tổn thất nào đáng kể. Cộng quân sau đó bu lại bao vây và chia cắt Trung Đội 2B1/7 cách xa tiểu đoàn bởi một lực lượng Việt Cộng đông đảo. Cuộc chạm súng gia tăng cường độ, Herrick cấp tốc liên lạc với đại đội, đồng thời thiết lập chu vi phòng thủ tại một gò đất. Trong vòng 25 phút giao tranh, đã có 5 quân Mỹ bị tử thương trong đó có Trung Đội Trưởng Herrick. Trước khi hy sinh viên thiếu úy này còn đủ bình tĩnh báo cáo số anh em bị thương vong cho đại đội, trao quyền chỉ huy lại cho Trung Sĩ Palmer, và ra lệnh phá hủy mật mã, đồng thời vẫn còn tỉnh táo gọi pháo binh bắn yểm trợ rồi buông máy ra đi. Nhưng cũng không lâu sau đó cả hai Trung Sĩ Palmer và người phụ tá là Trung Sĩ Stoke cũng bị đạn địch đốn ngã. Trung Sĩ Nhất Savage lên chỉ huy và liên tục kêu pháo binh nhả đạn chính xác vào quân địch đang bao vây tứ bề. Tới lúc này trung đội đã có tám người chết, 13 người bị thương. Nhưng nhờ sự bình tĩnh chỉ huy của Savage cũng như lòng can trường của y tá Charlie Lose, liều chết bò trườn dưới lằn đạn của địch để băng bó thương tích cho đồng đội. Trung đội được mệnh danh là “xé lẻ” đã giữ vững vị trí chiến đấu trong suốt thời gian bị Cộng quân Bắc Việt bao vây và tấn công.

Advertisements
REPORT THIS AD

Những Binh Sĩ của Đại Đội B/1/7th Cavalry lục soát khu vực quanh X-Ray

Khoảng 2 giờ 30, Đại Đội D (Delta) do Đại Úy Ray Lefebvre chỉ huy với quân số đầy đủ được trực thăng vận đổ xuống, như vậy là TĐ 1/7 đã có mặt cả 4 đơn vị cấp đại đội A, B, C, D. Đại Đội D đã nhanh chóng xen vào cùng 3 đại đội kia lập tuyến phòng thủ. Trong khi đó pháo cối 60 và 81 ly của địch tiếp tục rót xuống bãi đáp, Cộng quân ngày càng tấn tới từ phía núi. Đại Đội A liền được điều động di chuyển sang bên cánh trái của Đại Đội B để bảo vệ cạnh sườn. Đại Đội C được lệnh chiếm một vị trí ngăn chận bên ngoài bãi đáp về phía Nam và Tây Nam để tránh cho bãi đáp khỏi bị tràn ngập và cũng để bảo vệ cạnh sườn trái của Đại Đội A. Tiểu Đoàn Trưởng Moore cũng đã gọi pháo binh và không quân yểm trợ tối đa. Hỏa lực không yểm và pháo yểm được lệnh bắn phá vào phần ven triền núi và tiến dần lên núi để chận đường viện quân của địch tới bãi đáp từ hướng Tây và Nam.

Advertisements
REPORT THIS AD

Đợt dội bom của không quân vừa dứt, Cộng quân với khoảng 400 tên từ Chu Prong tràn xuống dọc theo dòng suối cạn, chia làm hai cánh tấn công trực diện Đại Đội A và đánh thốc vào cạnh sườn Đại Đội C với ý định chẻ lực lượng Mỹ ra làm hai.

Một lực lượng Việt Cộng ít nhất cũng một đại đội tiến dọc theo ven phía Tây của bãi đáp tấn công trực diện vào Đại Đội A. Giao tranh bùng nổ dữ dội, nhờ hai khẩu đại liên M.60 do các binh nhất Ladner và Adams là xạ thủ, cách nhau không quá 10 thước.

Ngay khi cuộc giao tranh với Đại Đội A bùng nổ, một lực lượng khác gồm từ 175-200 địch quân tiến tới bãi đáp và đánh thẳng vào Đại Đội C. Địch quân bị chận đứng và nhiều bộ đội đã bị ngã gục dưới hỏa lực của các khẩu đại liên khi cố xông tới chiếm cứ bãi đáp. Cuộc giao tranh kéo dài khoảng một tiếng rưỡi cho đến khi địch bị rối loạn đội hình buộc phải tháo lui dưới hỏa lực không kích và pháo kich, lôi theo nhiều xác chết và quân sĩ bị thương.

Advertisements
REPORT THIS AD

Trận đánh tại bãi đáp X-Ray

Lúc 3 giờ 30 chiều, hỏa lực địch bắt đầu thuyên giảm dưới sức phản công của hai đại đội C và D. Cuộc tấn công của họ bị khựng lại vì tổn thất khá nhiều. Chúng rút lui về phía rừng cây sau những đám cỏ voi.

Rảnh tay, Tiểu Đoàn Trưởng Moore ra lệnh các đơn vị lo di tản thương binh tu sửa vị trí phòng thủ và tái phối trí lực lượng. Sau đó, điều động một cuộc tấn công để tiến tới giải cứu Trung Đội 2B1/7 của Herrick đang vị bao vây. Hai đại đội tiến quân được chừng 70 thước dọc theo bờ suối thì bị một tổ đại liên của địch bố trí sau một gò mối, khai hỏa ồ ạt, gây nhiều tử thương cho binh sĩ. Thiếu Úy Marm, một mình lẻn ra phía sau gò mối, tung từng đợt lựu đạn và bắn rỉa M.16 vào tổ đại liên địch, hạ sát tại chỗ 12 tên, trong đó có tên sĩ quan chỉ huy của chúng.

Advertisements
REPORT THIS AD

Tới lúc này khoảng 5 giờ 40, chiều núi rừng đổ xuống thật mau. Trung Tá Moore ra lệnh cho hai đại đội quay trở lại vị trí xuất phát cố thủ qua đêm. Tạm thời kiểm điểm quân số thì Đại Đội B thiệt hại 47 (kể cả 1 Sĩ Quan), Đại Đội A bị 34 (3 Sĩ Quan), Đại Đội C bị tấn công nặng nhất nhưng chỉ bị thiệt hại có 4 người. Về phía Cộng quân thiệt hại rất lớn, xác địch ngổn ngang chung quanh vị trí của tiểu đoàn không kịp đếm.

Khoảng 6 giờ chiều, Đại Đội B thuộc Tiểu Đoàn 2/7 đổ bộ để tăng cường cho Tiểu Đoàn 1/7. Pháo Binh tác xạ bảo vệ tuyến phòng thủ cho các đơn vị suốt đêm kể cả trung đội đang bị bao vây. Lợi dụng bóng đêm, cộng quân đã tấn công trung đội nầy ba lần, nhưng đều bị đẩy lui vì súng, lựu đạn mặc dù quân số trung đội nầy chỉ còn bảy người khỏe mạnh với 13 bị thương và 9 tử trận. Cộng quân đã dùng “Tù Và” thổi để thúc quân, hòng uy hiếp tinh thần và mong dứt điểm đối phương. Từ nơi xa, pháo đội bạn đã bắn đến viên đạn thứ 4 ngàn trong đêm.

Ngày 15 Tháng Mười Một, 1965

Vì bị tổn thất nặng vào buổi chiều, địch chỉ đánh dạm nhẹ xung quanh chu vi phòng thủ vào ban đêm. Còn trung đội bị cô lập thì bị ba đợt tấn công riêng rẽ nhưng nhờ vào hỏa lực pháo cận phòng liên tục, khi trời sáng, nhiều xác địch nằm ngổn ngang xung quanh trung đội.

Thượng Tá Nguyễn Hữu An tức giận hai Tiểu Đoàn tấn công quân Mỹ khi chưa kịp tổ chức phòng thủ mà không làm gì được nên tung thêm một tiểu đoàn của Trung Đoàn 33 tập kích gấp rút để tấn công vào quân Mỹ lúc 2 giờ sáng, nhưng đơn vị nầy ờ khoảng cách xa, đi lạc đường và lộ mục tiêu vì dùng đèn pin chiếu sáng khi di chuyển nên bị phi cơ Mỹ phát giác và oanh kích.

Khi mặt trời vừa ló dạng, địch quân tái xuất hiện và đồng loạt tấn công từ ba phía Nam, Tây Nam và Đông Nam. Vào khoảng 7 giờ 30, hai Tiểu Đoàn 7/66 CSBV và H15 tấn công vào tuyến phòng thủ của các Đại Đội A, C & D. Địch quân đã di chuyển gần sát chu vi phòng thủ mặc dù bị pháo binh, bích kích pháo và không kích tiếp cận gây tổn thất nặng nề. Có nhiều cuộc đánh xáp lá cà xảy ra. Lúc 8 giờ hơn, hai phản lực cơ F-100 bay đến yểm trợ, oanh tạc lầm vào đơn vị bạn làm chết thêm một số người.

Vào khoảng 9 giờ 10, theo lời yêu cầu của Trung Tá Moore Đại Đội A /TĐ 2/7do Đại Úy Joel Sugdinis chỉ huy được trực thăng vận tới tiếp viện. Đại đội nầy được điều động trám vào khoảng trống tiếp theo Đại Đội C.

Sau gần 2 tiếng rưỡi giao tranh, quân Cộng Sản rút lui. Xác địch, vũ khí và quân cụ nằm ngổn ngang đầy ven bờ và phía trước chu vi phòng thủ. Có dấu vết chỉ cho thấy nhiều xác địch và thương binh địch được lôi kéo ra khỏi khu vực giao tranh.

Đơn vị thiệt hại nhất thuộc quyền Trung Tá Moore là Đại Đội Cộng quân số tại hàng khi chưa đụng trận thì đại đội C nầy gồm có năm sĩ quan và 106 binh sĩ. Đến 2 giờ trưa ngày 15 Tháng Mười Một, khi kiểm điểm tình hình thì toàn thể sĩ quan Đại Đội C đều hy sinh, binh sĩ 42 tử thương và 20 bị thương.

Lúc 11 giờ 30, Lữ Đoàn 3 tung Tiểu Đoàn 2/5 do Trung Tá Bob Tully chỉ huy đổ bộ từ bãi đáp Victor rồi tiến sát tới bãi đáp X-ray lúc 12 giờ 5 để giải cứu Trung Đội 2B 1/7 đang vị bao vây. Địch quân chỉ kháng cự nhẹ và trung đội được giải thoát lúc 3 giờ 10. Đơn vị nầy gồm 29 người còn lại 7 người khỏe mạnh 13 người bị thương, tình thần còn tốt và chỉ bị 9 chết kể cả trung đội trưởng và trung đội phó. Tất cả những người bị thương và chết đều được di tản.

Đêm đến, lực lượng Mỹ lại bố trí phòng thủ qua đêm thứ nhì. Tiểu Đoàn 2/5 CAV được giao cho phòng thủ một nửa chu vi cứ điểm.

Ngày 16 Tháng Mười Một, 1965

Ngày nầy lực lượng phòng thủ đã có hai tiểu đoàn, những tưởng địch quân sẽ tháo lui vì thiệt hại quá nhiều, yếu tố bất ngờ, lấy nhiều đánh ít đã thất bại… Nhưng Chu Huy Mân ra lệnh đánh tiếp.

Đêm trải qua yên tĩnh đến 4 giờ sáng, hệ thống mìn tự động và trái sáng quanh vị trí phòng thủ bị kích hỏa, pháo binh bắn cận phòng suốt đêm cũng không ngăn được địch quân với một lực lượng gồm 250-300 người len qua màng lưới thép tấn công từ phía Đông Nam. Phi cơ thả trái sáng được gọi đến. Địch quân liên tục tấn công bốn đợt, giao tranh cận chiến đẫm máu cho đến 7 giờ sáng. Trung Tá H.G Moore yêu cầu pháo binh bắn vào khu vực hàng rào kẽm gai quanh trại. Loạt đạn nổ chụp quanh rào làm tất cả các địch quân đang tiến vào doanh trại đều bị tử thương cách hàng rào phòng thủ không đầy 3 mét. Như vậy pháo binh đã bẻ gãy cuộc đột kích và gây tổn thất nặng nề cho đối phương.

Lúc 8 giờ sáng, công cuộc tìm và càn quét quanh căn cứ được thực hiện bởi tất cả các đơn vị trong phạm vi phòng thủ. Xác địch bỏ tại trận trên 200 nằm la liệt khắp cùng khu vực và thu lượm được vô số vũ khí. Đại Đội B/1/7 có chín binh sĩ bị thương.

Tổng kết toàn trận đánh kéo dài liên tục trong 48 tiếng đồng hồ, địch quân tổn thất tại X-Ray gồm:

Chết đếm được xác: 634 . Chết xác mang đi (ước tính): 1215

Bị bắt: 6

Vũ khí bị tịch thu: 141

Vũ khí bị phá hủy: 100

Về phía Tiểu Đoàn 1/7 CAV thì 79 quân sĩ bị thiệt mạng và 121 bị thương được lịnh lui về Pleiku để chỉnh trang. Lúc 3 giờ chiều, Tiểu Đoàn 1/7 bàn giao X-Ray lại cho Tiểu Đoàn 2/7 do Trung Tá Robert Mac Dade và Tiểu Đoàn 2/5 được gởi đến thay thế.

Trung Đoàn 66 CSBV bị tổn thất nặng nề trong trận đánh X-Ray là vì họ bị Tiểu Đoàn 1/7 tấn công bất ngờ (pháo binh tác xạ ngoài rào phòng thủ) và các cán bộ chỉ huy đã không khéo sử dụng địa thế. Các chiến thuật của họ hầu như dựa vào “biển người” và họ quá tự tin là cuộc tấn công của họ sẽ làm cho Tiểu Đoàn 1/7 rã ngũ rất mau chóng. Họ đã không sử dụng các vũ khí cộng đồng trong khi tấn công (Thật ra các khẩu súng cộng đồng và 18 khẩu súng phòng không của họ đều đã bị chiến đoàn QL-VNCH giải vây Pleime tiêu diệt).

Trận đánh Ia Drang của SĐ1 Kỵ Binh Không Vân

Ngày 17 Tháng Mười Một, 1965

Từ chiều ngày 15 Tháng Mười Một, các phóng pháo cơ B52 đã tham gia vào trận đánh với ít nhất năm phi vụ oanh tạc mỗi ngày tại rặng núi Chu Prông. Ngày 17 Tháng Mười Một, các mục tiêu oanh tạc trải thảm của pháo đài bay B52 cũng bao gồm quanh khu vực núi Chu Prong luôn cả bãi đáp X-ray. Hai tiểu đoàn 2/7 và 2/5 được lệnh di chuyển ra cách bãi đáp 3 cây số về hướng Bắc và hướng Đông Bắc tới hai bãi đáp khác gọi là LZ Albany và LZ Columbus .

Việc di chuyển cũng dựa trên ước tính là địch đã rút lui về hướng đó. Vào buổi chiều ngày hôm trước, một trực thăng đã bị bắn rớt trên vùng đó, sự di chuyển của địch cũng nhắm tấn công vị trí pháo binh nằm phía Đông bãi đáp X-Ray, đã từng yểm trợ hữu hiệu cho tiểu đoàn 1/7 trong hai ngày chót. Vào khoảng 9 giờ sáng, hai tiểu đoàn bắt đầu di chuyển theo hai hướng khác nhau, TĐ2nd/7th dưới sự chỉ huy của Trung Tá Robert McDade di chuyển đến LZ Albany khoảng 3km về hướng Bắc-Đông Bắc và TĐ2nd/5th do Trung Tá Bob Tully chỉ huy di chuyển về LZ Columbus khoảng 3km hướng Đông Bắc.

Sau khoảng 3 giờ di chuyển TĐ2/5 đến được mục tiêu LZ Columbus. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 2/7 do Trung Tá McDade chỉ huy cũng vừa đến vị trí Albany vào lúc 1 giờ 30 trưa thì bị lọt vào ổ phục kích của các đơn vị Cộng Sản rất đông quân số đang nằm chờ nơi đó từ lâu. Các đơn vị Cộng Sản nầy gồm có Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 33 CSBV, BCH/Trung Đoàn 33 cùng với TĐ8/Trung Đoàn 66 một đơn vị trừ bị còn sung sức của Chu Huy Mân.

Bộ chỉ huy của TĐ2/7 đi đầu cùng với trung đội Trinh Sát bảo vệ, khi tới nơi, toán trinh sát bắt được 2 tên Việt Cộng đóng chốt đang nằm ngủ. Bắt được tù binh Trung Tá Mc Dade cho lệnh đoàn quân dừng chân nghỉ mệt rồi ông đích thân thẩm vấn hai tên Việt Cộng. Chúng khai rằng Tiểu Đoàn 8/66 hiện đang có mặt quanh đây. Trung Tá Mc. Dade gọi các Đại Đội Trưởng đến họp để ban lệnh. Ngay khi tiểu đoàn đang họp thì Cộng quân nhất loạt xung phong tấn công vào quân Mỹ.

Lợi dụng lúc quân Mỹ đang nằm ngồi ngổn ngang nghỉ mệt, Cộng Quân hàng trăm tên đồng loạt xung phong. Một cánh đánh trực diện đơn vị dẫn đầu của Tiểu Đoàn 2/7 và cánh khác đánh vào cạnh sườn phía bên phải hay phía Đông trong một đội hình phục kích chữ L. Cộng quân tấn công dữ dội vào phòng tuyến Mỹ bằng đủ loại vũ khí và luôn cả đánh xáp lá cà.

Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 2/7 hoàn toàn bị tê liệt, bị cả một lực lượng đông đảo địch quân tấn công. Trong giờ phút đầu tiên bị tấn công, Lữ Đoàn hay tin nhưng không thể liên lạc được.

Trận chiến kéo dài cho đến trời tối, địch quân đã cắt Tiểu Đoàn 2/7 ra thành từng mảng. Các Binh Sĩ Hoa Kỳ phải ẩn mình trong các vị trí kín đáo để tự chiến đấu. Cộng quân đã gây thiệt hại 50% quân số cho Tiểu Đoàn 2/7. Lúc này quân sĩ Hoa Kỳ gần hết đạn vì hầu hết tất cả quân nhân Hoa Kỳ khi mới đụng trận vào giờ phút đầu thì họ bắn hết phân nửa số đạn mang theo. Quân sĩ Hoa Kỳ thường ỷ y khi đánh trận, bắn cho hết ga, bắn cho sướng tay, càng bắn nhiều thì địch càng chết nhiều. Rồi trực thăng sẽ chở đạn dược đến không cần phải lo. Nhưng khi trực thăng bị lưới phòng không phủ chụp xuống thì việc tiếp tế không thể thực hiện được.

Lúc 3 giờ chiều, Đại Đội B của Tiểu đoàn 1/5 Kỵ Binh do Đại Úy Buse Tully được lịnh di chuyển từ LZ Columbus vào phía sau của Tiểu Đoàn 2/7 cách đó khoảng hai dặm (3km). Lúc 4 giờ 30 chiều, họ đã tiếp cận được với Đại Đội A/2/7 của Đại Úy George Forrest. Một trực thăng tản thương đã hạ cánh an toàn và những thương binh đã được sơ tán. Lúc 6 giờ 25 chiều, các đơn vị nầy đã nhận được lệnh tổ chức vị trí phòng thủ đêm chu vi hai đại đội.

Các Đại Đội C và A bị mất 70 người ngay trong những phút đầu. Đại Đội C thiệt hại nặng nhất, 45 người chết và hơn 50 người bị thương. Các phóng pháo cơ A-1E Skyraider được gởi đến yểm trợ thả bom napalm. Tuy nhiên, do sương mù và sự xen kẽ của quân hai bên đánh xáp lá cà, nên cuộc không kích kém hiệu quả.

Tiểu Đoàn 2, Lữ Đoàn 7 đã gom lại một chu vi nhỏ tại Albany bao gồm những người sống sót của Đại Đội A, trung đội Trinh Sát, Đại Đội C, Đại Đội D và BCH Tiểu Đoàn. Cách xa khoảng 500m về phía Nam là Đại Đội A/2/7 của Đại Úy George Forrest, và Tiểu Đoàn 1/5 Kỵ Binh. Vào khoảng 10 giờ đêm, các trực thăng tản thương đã đáp được xuống Albany để di tản Những thương binh mặc dù đạn phòng không của địch quân dầy đặc.

Đêm về toán địch quân đi thanh toán chiến trường. Tất cả tử thi đều bị địch quân đâm suốt từ tim ra sau lưng, dù tử thi đã chết từ lâu. Thiếu Úy G.A. Custer bị miểng pháo cắt ngang chân, đang nằm chờ chết. Xung quanh anh toàn là người chết xếp lớp. Anh diễn tả khi nghe địch quân “đi thanh toán chiến trường” như sau:

“Họ đi hàng ngang, lưỡi lê kéo dài rất nhọn từ súng AK-47, họ đến từng người lật ngửa xác ra và chĩa lưỡi lê vào ngay tim rồi ấn xuống. Có xác chết từ lâu thì tiếng lưỡi lê hay cây sắt nhọn đâm vào tim, tiếng nghe rất giòn: “Sụt sụt… Ọt ọt,” có nạn nhân đang hấp hối bị đâm suốt vào tim thì người sẽ cong lên và hét lớn lần cuối.” Tiếng thét này đeo đẳng theo Thiếu Úy G.A. Custer suốt đời, từ Ia-Drang đến tận Chicago nơi mà thiếu úy về an dưỡng cuộc đời phế binh 37 năm sau.

Khi đến cách thiếu úy chừng vài mét thì có cuộc trải thảm của B-52 nên Thiếu Úy Custer nghe tiếng kèn thổi lui quân của địch. Và từ đó ông không còn nghe gì nữa cho đến ba tuần sau tại phòng Hồi Sinh của bệnh viện Hoa Kỳ đóng tại phi trường Cù Hanh Pleiku.

Ngày hôm sau, 18 Tháng Mười Một, các đơn vị Mỹ bắt đầu kiểm kê lại trận đánh tại LZ Albany, xác chết đôi bên nằm la liệt trên chiến địa. Tổng kết phía Mỹ thiệt hại 155 tử thương, 124 bị thương và còn lại 171.

Về phía địch quân 403 xác đếm được, tịch thu 147 súng đủ loại. Và sau hết lực lượng Mỹ rút khỏi LZ Albany.

Trận đánh Ia-Drang từng được xưng tụng là chiến thắng ngoạn mục của quân đội Hoa kỳ, nhưng theo nhiều nhà bình luận cho là một thảm họa mà trong đó khoảng 300 bộ binh Mỹ thiệt mạng vì cấp chỉ huy quờ quạng vụng về. Với hỏa lực yểm trợ hùng hậu từ B52, khu trục, phản lực cơ và pháo binh cộng với tốc độ chuyển quân thần tốc của trực thăng vận và lòng dũng cảm chiến đấu kiên cường của người lính, từng ấy ưu điểm đáng lý phải đè bẹp đối phương. Vậy mà để rồi cứ bốn lính Mỹ tham chiến tại IA Drang thì có 1 người bỏ mạng, thế chủ động chiến trường tan theo mây khói và niềm tin vào một thế thượng phong của Hoa Kỳ cũng triệt tiêu.

Trở lại phần phân tích trận chiến, nhiều người đồng ý là lỗi lầm đầu tiên của các tiểu đoàn trưởng là đã không thu thập tin tức tình báo về bãi đáp X-Ray và điểm tới LZ Albany. Các ông cần phải biết rõ về địch tình, địa thế và thời tiết. Các ông chỉ lo tìm vị trí bãi đáp và không để ý đến địch quân dù rằng quân số địch ước tính cả trung đoàn. Họ chọn bãi đáp đỗ quân cho cuộc hành quân rất gần nơi địch quân đang ẩn núp trong dãy núi Chư-Prong. Tình báo chiến trường của họ cho biết là chắc chắn quân địch đang ở biên giới Cambodia từ lâu rồi, vì quanh núi Chư-Prong đoàn phi cơ thám thính không thấy dấu hiệu địch quân như: dấu chân trên cát hay cỏ, không có dấu hiệu khói nấu ăn, không có cành cây gãy khi đại quân đi qua, tất cả an toàn cho bãi đổ quân. Nhưng tất cả đã lầm.

Nơi đây tiểu đoàn hành quân đã chạm địch ác liệt, đến nỗi họ phải kêu pháo đài bay B-52 giội bom lửa sát phòng tuyến của họ. Lệnh này được lập lại ba lần thì phi công B-52 mới dám thi hành. Sau đó các phi vụ B52 đánh bom đến 18 lần trong ngày. B-52 được lệnh từ Pleiku trải thảm bom toàn thể núi Chư Prong chận địch quân đánh xuống khu vực Hoa Kỳ vừa đổ quân và đồng thời cũng chận bít con đường rút quân của Tướng Chu Huy Mân chạy trốn sang Cambodia.

Trích trong “Binh Chủng Nhảy Dù – 20 Năm Chiến Sự:” phần Chiến dịch Ia Drang 1965

 

Trần Yên Hạ: Những chặng đường chông gai

Share on facebook
 
Share on twitter
 
Share on whatsapp
 
Share on email
 
Share on print

                                          

Âm Vang – Tranh: Thanh Châu

 Lại một lần nữa nghe lời Hảo, bỏ đơn vị đang biệt phái là Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4 để về Vĩnh Long với hắn. Bạn bè chinh chiến hai năm mới gặp lại. Thằng gầy, thằng đen, thằng nào cũng “bụi” như lính đào binh, nhưng mặt mày vẫn non choẹt với lon Trung uý chưa kịp rửa. Gặp nhau, nhậu một trận đã đời rồi chia tay vội vã vì cơn lũ Tháng Tư  75 uà đến … cho đến hôm nay, ba mươi năm sau, vẫn có người chưa gặp lại!

Cái quyết định ngu dại nhất trong đời “bại binh” cuả tôi là đem theo một tháng gạo, cùng Lý Phước Hồng đón xe lôi đi ở tù! Có lẽ trên thế gian nầy, chưa có đoạn quân sử quốc gia nào ghi chép những điều kỳ quái như thế.  Sau một tháng “học tập” tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, mấy tên tù binh lơ láo như tôi tưởng được thả về, không ngờ lại bị đưa thẳng vào trại Chi Lăng, nhốt ở đó một năm sáu tháng, không cho thư từ, thăm viếng. Bài học thuộc lòng đầu tiên là đói… Đói đến nỗi không dám cười, thân hình chỉ còn da bọc xương. Bài học thứ hai là ăn cây cỏ dại, chuột cống lang … thoi thóp qua ngày!

Ở Chi lăng một năm, tôi đã có ý nghĩ phải tìm cách trốn thoát. Đây là vùng núi và biên giới, mà tiểu đoàn tôi đã quần nát dấu chân, tôi nghĩ sẽ dễ dàng vượt qua biên giới. Biết đâu, ở đó có quân kháng chiến.

Năm thứ hai (1976) … mới sáu giờ sáng, tôi còn nằm nướng trên manh vải bố dưới đất thì Nguyễn Văn Sáu ở phòng cạnh bên bước vào, nằm xuống cạnh tôi. Thoáng chút ngạc nhiên “Mầy làm gì dậy sớm vậy?”. Tôi cất giọng nhừa nhựa trong cơn lười biếng. Sáu không trả lời, kéo tấm mền của tôi đắp ké. Tôi lơ mơ trong giấc ngủ chập chờn, vì bắt đầu có nhiều người thức dậy nói chuyện, đùa giỡn. Sáu nằm bên tôi khoảng một tiếng rồi lặng lẽ bỏ đi. Tôi cũng quên đi nhanh chóng việc nầy. Cho đến ba hôm sau thì có tin một toán bốn người đã chui rào vượt trại, trong đó có Sáu! Chừng đó, tôi mới nhớ lại và hối tiếc, tại sao mình lại vô tâm đến thế? Có thể Sáu muốn nói điều gì? Một lời trối trăn vì con đường đi muôn vàn nguy hiểm?  Toán cuả Sáu đi ngay con đường có bãi mìn ngập nước từ lâu. Đây cũng chính là con đường tôi đã gỉa vờ đi hái rau muống dại và có ý định sẽ trốn thoát bằng lối đó.

Hai ngày sau, bọn cán bộ thông báo đã bắt được ba trong bốn tên vượt trại. Tôi và Hồng lo sợ có Sáu trong đó, tìm cách dò hỏi nhưng không có tin gì. Cầu mong cho Sáu được bình yên! Mãi đến gần mười tám năm sau, khi đến Mỹ, tôi mới được tin  Sáu đã thật sự bình yên ở nơi nào đó, qua cái chết trên đường vượt biên, sau khi trở về với người vợ thân yêu một thời gian ngắn.

***

Hai tháng sau khi Sáu trốn đi, lòng tôi buồn nao nao. Nhìn đỉnh Thiên Cấm Sơn mù mù trong sương chiều, nơi tôi đã từng thức trắng đêm canh giặc để giữ yên thành phố. Cũng nơi đó, biết bao chàng trai trẻ với lý tưởng kiêu hùng đã bỏ lại thịt xương. Thế mà xương trắng, máu đào và những hy sinh, những chiến tích lừng lẫy cũng tan loãng như mây trời. Tôi bỗng nghe thèm quá một khẩu súng – Súng xưa đâu, thép lạnh lùng (1*)-  Bởi tôi muốn rời khỏi trại tù nầy, đi về Thiên Cấm Sơn, về bên kia biên giới. Có lẽ, những chiến sĩ, những đồng đội của tôi còn đâu đó!  Rồi tôi nghe se thắt cả cõi lòng khi nhớ đến mẹ và đứa em gái nhỏ vừa mới xong trung học, không biết sẽ sống bằng cách nào. Tôi nhớ đến người yêu ở Sài Gòn chưa biết tin. Giờ nầy, chắc em đang ngỡ ngàng với cuộc đổi đời đầy cay đắng!

Một buổi sáng, tiếng gọi tập họp của tên cán bộ đầy hách dịch:

-Đội 5, cho năm người đi lao động. Từ tên nầy, một, hai, ba, bốn, năm – có tôi trong đó.

Tên vệ binh chừng mười bảy tuổi, mang khệ nệ khẩu AK dẫn đầu cùng năm tên tù ra khỏi cổng rào chừng một, hai cây số.

-Các anh ‘nàm’ mỗi người một ‘nuống’ đất trồng khoai, cao 3 tấc, ngang 3 tấc, mỗi ‘nuống’ dài từ hàng cây “lầy” đến hàng cây kia. ‘Nàm’ xong sớm thì nghỉ sớm. Rõ chưa?”

Tôi cuốc đất một cách uể oải vì đói. Ở đây, nhìn dãy núi thật gần. Mây mù vần vũ, trời lại mưa.

-Thưa cán bộ, trời mưa!.

-Đã biết! không cần báo cáo. Nhưng các anh phải ‘nàm’ xong mới  được về.

Tên vệ binh trùm đầu bằng tấm poncho và đến ngồi co ro bên gốc cây, cạnh nơi tôi đang cuốc. Trời sấm sét, mưa mù mịt. Dãy núi đã biến mất trong làn mưa, chỉ còn loé lên những lằn ánh sáng và tiếng nổ chát chúa nơi hướng núi. Tôi nhớ ba năm trước, lần đánh chiếm lại Núi Dài, đạn bom long trời, lở đất, như cơn sấm sét thịnh nộ ngày hôm nay. Nước mưa thấm lạnh cả thân thể gầy gò, vậy mà lòng tôi bỗng nóng ran như lửa đốt. Một ý nghĩ chợt hiện lên “Sao không nắm lấy cơ hội này để trốn thoát?” Một cán cuốc đập mạnh. Chính xác. Quyết liệt. Vào cái đầu đang trùm poncho xoay lưng lại, tước khẩu AK và chạy về phía núi. Không biết mấy người bạn tù đằng kia sẽ phản ứng ra sao? Tôi nghĩ nhanh, bắt bốn người  kia đi theo một khoảng xa, khi đã an toàn,  ai muốn trở lại trại, tuỳ ý.

Nhìn lại cái khối tròn nhô lên trong tấm poncho, tôi cắn chặt răng. Một cú đập đủ kết liễu mạng người hay ít ra cũng làm cho bất tỉnh. Tôi vận dụng sức lực lên đôi tay, giơ cuốc lên … rồi lại cuốc đất. Tại sao thằng vệ binh nầy lại ngồi im? Tại sao nó không lên giọng phách lối đáng ghét?  Tôi cố moi trong đầu óc. Tìm.  Kiếm.  Nhớ… những điều khiến tôi căm thù. Rồi tôi nhớ đến nét mặt và giọng nói đểu giả của tên thiếu tá chính ủy Trần Thâu khi lên lớp “Bọn ngụy các anh chuyên cướp của giết hại dân lành, tội lỗi của các anh biển Đông rửa cũng không sạch”.  Hừ! đúng là cái bọn ngậm máu phun người. Bây giờ, ta mới thật sự là kẻ giết người, ta giết bọn bây, cái bọn vừa ăn cướp, vừa la làng! Tôi giơ cuốc lên. Một ánh chớp và tiếng gầm run chuyển đất trời. Tôi lại nghĩ… nhà thằng nhóc nầy chắc ở miền quê Bắc Việt. Không chừng, mẹ nó cũng đang cuốc đất, trồng khoai, lê lết cuộc sống đói nghèo trong cái xã hội chủ nghĩa. Không chừng, em nó cũng vừa bỏ học để tìm miếng ăn.  Chiếc cuốc chợt run rẩy trong tay tôi.

Tên vệ binh vẫn ngồi co ro bên gốc cây, ôm khẩu súng dựa vai. Hình như nó đang ngủ.  Năm tên tù ướt loi ngoi thất thểu trở về trại. Cái đói vẫn hành hạ bọn tôi một cách tàn nhẫn.

Hai ngày sau, vào một buổi chiều trời vừa sập tối, một loạt AK nổ vang phía Khung 4. Bản tin chuyền nhanh sáng hôm sau, thiếu úy Tuấn bị kiết lỵ, xin đi cầu tiêu, bị tên vệ binh non choẹt  nổ nguyên băng đạn AK vào người khi anh đang quằn mình trong cơn đau bụng vật vã. Tuấn chết tại chỗ, nơi bờ rau muống vừa vượt ngọn. Cán bộ tập họp thông báo, thằng Tuấn cực kỳ phản động, dám giựt khẩu súng của vệ binh để trốn trại, đã đền tội.

Ai cũng biết anh Tuấn có đệ nhị đẳng huyền đai Thái Cực đạo. Nhưng cả tuần nay anh bị kiết lỵ, đi đứng không nổi, nói gì đến chuyện giựt súng, trốn trại! Tôi mở to đôi mắt, nhìn trừng trừng vào tên vệ binh giết người vừa được thăng cấp. Kẻ chiến bại không đủ tàn nhẫn để nện một cán cuốc. Kẻ chiến thắng thì sẵn sàng nhả đạn vào một con người không chút oán thù để lập “chiến tích”. Tôi nhìn hắn, hai tay nắm chặt, tự hứa với lòng “Mai ta đi đòi lại kiếp làm người!”

 

***

Sau khi thoát khỏi nạn đói nhờ liều mạng ăn chuột cống lang, tôi thấy khoẻ ra, nên bắt đầu luyện tập thể lực để chờ thời cơ. Sáng nào cũng chạy mấy chục vòng sân. Tôi gặp Hồ cũng chạy (sau nầy khi qua đảo, nghe Hồ trốn trại ở Xuyên Mộc, mới nhớ lại chuyện cũ. Thì ra, nó cũng như mình)

Ở Chi Lăng hai năm, tôi được gặp nhiều bạn cùng khóa như Thạnh, Nghệ, An, Điều, Nẫm, Nhơn, Tiễn, Long,  Hồ… Lúc đó, Nghệ ăn chay trường, hắn ta có tài kể chuyện rất có duyên. Cả nhóm hay ngồi say mê nghe Nghệ kể chuyện “Tam Quốc Chí”. Không ngờ, hắn cũng có đầu óc kinh tế, nên đến đoạn gây cấn “Trận Xích Bích”, hắn làm eo, làm xách, anh em phải lo lót ít rau muống hay đọt lang để chấm tương mới chịu kể tiếp. Dù được chiều chuộng, nhưng hắn cũng thường dở hơi bất tử. “Tui mệt quá, ngày mai kể tiếp!”. Cái thằng! ăn chay trường mà toan tính như  “ác nhân”. Có lần tôi đè hắn ra, hăm he sẽ đổ “dầu hợi” (mỡ heo) vào miệng hắn. Nghe đến dầu hợi hắn sợ lắm, bắt làm gì cũng làm.

Anh em gặp nhau vui vẻ chẳng bao lâu lại phải chia tay. Tôi bị đưa đến trại Vườn Đào, Mộc Hóa và bị xếp vào diện ác ôn, nguy hiểm, nên không hề được đi ra ngoài công tác, cứ quanh quẩn trong vòng rào, thật khó mà trốn  thoát như dự định. Ở Vườn Đào, tôi tìm được người đồng chí hướng là Nguyễn Đức Tân. Hai đứa bàn kế hoạch, làm sao được xung vào toán mổ heo trong dịp gần Tết (1978) để có cơ hội ra ngoài bờ kinh, từ đó vọt về Cát Lái. Thời cơ đến, ban nhà bếp đang tìm người biết mổ heo. Chúng tôi khai là có nhiều kinh nghiệm “gia truyền”, nhưng giờ chót Tân không được chọn. Một mình ra ngoài, tôi vừa thất vọng, vừa khổ sở, vất vả với hai con heo. Thật sự, trong đời chưa hề đụng đến con heo thì làm sao mà biết mổ. Cuối cùng, đành phải trở lại trại, sau khi chôm chỉa bộ lòng và hai lít rượu đế chia cho mấy thằng bạn.

Sau cơn đại lụt ở Vườn Đào khoảng tháng 6 năm 1978, lòng tôi nôn nóng như ai cào cấu. Phải làm sao đi trong năm nay, vì nghe đâu sẽ bị chuyển đến một trại kiên cố hơn nhiều. Lần nầy, tôi tập họp được ba người bạn. Nguyễn Thạch Bửu, nhiệm vụ tích trữ tiền bạc và thuốc men. Trần Bạch Đằng liên lạc bên ngoài để đưa cả bọn về Vũng Tàu rồi ra rừng Long Khánh (nghe tin có nhóm kháng chiến ngoài đó). Nguyễn văn Tước tích trữ lương khô và cung cấp vật liệu khi tôi cần.Tôi  phụ trách việc đào hầm và chịu trách nhiệm hướng dẫn nhóm về đến Mỹ Tho. Rồi từ Mỹ Tho người của Đằng sẽ đưa về Long Khánh. Đồng ý kế hoạch, chúng tôi bắt đầu thực hiện. Thời điểm để trốn thoát là dịp Tết năm 1979. Chúng tôi tình nguyện gia nhập đội văn nghệ và đăng ký trình diễn vũ khúc Hahiti tự sáng tác. Lợi dụng thời gian ban quản giáo cho phép nhóm được tách riêng ở một góc vắng để tập vũ trong giờ các tù nhân khác nghe đọc sách, chúng tôi cùng nhau bàn bạc kế hoạch. Sau khi đã quyết định, chúng tôi bắt đầu hành động từng bước với lời thề “Một là thoát, hai là sẽ chống cự đến chết, nhất định không để bị bắt lại và bị hành hạ chết dần mòn như bao nhiêu anh em đi trước”.

Trước hết là chuẩn bị sức khoẻ để đủ sức băng rừng vượt suối khi cần. Ở trại Vườn Đào, chỉ có mấy cái ao nước tiểu quanh các dãy nhà và ao này sẽ ngập đầy khi con nước lớn.  Mỗi ngày, chúng tôi tập bơi lặn vài tiếng trong cái ao bẩn thỉu đó với tư thế bị trói hai tay. Khu trại Vườn Đào có hai vòng đai. Bên trong cùng là dãy nhà của tù vì được cất giữa đồng hoang, nên bên ngoài những dãy nhà là ao nước. Bao bọc dãy nhà của tù là bờ đê cao, có rào cẩn thận với dãy doanh trại cuả vệ binh. Từ bờ đê trại, vệ binh có một vòng đai cho “tù” trồng rau cải, ao cá, cầu xí. Bên ngoài cùng là những lớp rào và vọng gác cuả vệ binh. Ban ngày chúng cho “tù” tự do sinh hoạt ở vòng đai ngoài. Vệ binh gác ngoài cùng. Đến sáu giờ chiều thì lùa hết vào trong doanh trại, có bờ đê rào chặt chẽ, đèn điện sáng và hệ thống doanh trại vệ binh canh gác thật nghiêm ngặt. Làm thế nào có thể ở lại bên ngoài an toàn sau sáu giờ để khi vệ binh vào gác bên trong, ta sẽ thoát? Ngồi núp lại dưới hầm cầu thì đã có hai người vượt thoát. Trốn trong hầm ngầm dưới mặt nước ao, trước khi vệ binh lùa vào trong là thượng sách.

Để tránh sự chú ý cuả đám “ăng-ten”, chỉ một mình tôi đào hầm  -kiểu hầm ngầm dưới ao cuả VC. Hầm có cửa vào nằm dưới mặt nước, chỉ cần lặn xuống nước thì biến mất trong hầm. Địa điểm hầm được chọn gần ngay dãy trại cuả vệ binh để tránh sự dòm ngó cuả bọn chỉ điểm. Ròng rã suốt một tháng tôi mới đào hầm xong, vì mỗi khi có bạn tù đến gần thì phải ngưng để làm việc khác.  Tôi chôn giấu quần áo, lương khô, thuốc men ở một liếp rau, dùng cỏ khô đậy cửa hang lại kỹ lưỡng, chờ giờ thuận tiện để xuất phát. “Kế hoạch hành quân” quyết định sẽ bắt đầu vào chiều 28 tháng chạp năm 1978.

Theo kế hoạch, đúng 5 giờ 25 chiều, bốn người sẽ ngồi chăm bón rau gần hầm, khi thấy không  có ai chú ý thì tôi sẽ phóng xuống ao vào hầm trước,  lần lượt  Đằng, Bửu, Tước sẽ theo sau. Nhưng cho đến 5 giờ 15, tôi vẫn chưa rời khỏi phòng được, vì T, một tên “ăng-ten” khét tiếng cuả đội 3 cứ quanh quẩn nhìn tôi bằng cái nhìn dò xét. Trong lòng tôi nơm nớp lo sợ, không lẽ anh ta đã đánh hơi được cái gì? Nếu mình ra ngoài, hắn đi theo thì tiêu tan kế hoạch. Tôi phải đánh lạc hướng bằng cách đi tắm, và chăm sóc con gà sắp đẻ mà tôi đã nuôi mấy tháng nay. Đến 5giờ 30, có một người bạn kéo T. đi đánh pingpong ở đội 5 (T. hiện ở CaLi. Không biết anh ta có lần nào bị ray rứt vì những chuyện đã làm?). Khi hắn đi khuất, tôi bỏ con gà, chạy một mạch ra điểm hẹn. Đến nơi thì hỡi ôi!  cả người tôi lạnh toát!. Đằng đang ướt loi ngoi ngồi cạnh bên Bửu và Tước, giã vờ nhổ cỏ. Gần đó, anh Đức đang cuốc đất và vài người nữa đang chăm sóc luống rau, câu cá. Tôi hỏi, Đằng cho biết là đã đến giờ hẹn mà không thấy tôi, nên liều mạng xuống ao trước, nhưng không thấy cửa, lại leo lên bờ ngồi đó. Nhận thấy tình hình không thể chui vào hầm lúc nầy, tôi bảo Đằng phải vào thay quần áo thật nhanh và trở lại, đừng để người xung quanh chú ý. Khoảng mười phút sau, Đằng trở ra. Chỉ còn mười phút nữa. Vài người gần đó đã đi vào trại. Chỉ còn anh Đức đang cuốc đất cách chúng tôi chừng mười lăm mét. Chưa biết tính sao thì Trần Văn An lù lù đi tới và ngồi xuống cạnh tôi. Lại thêm một rối rắm nữa. Với cái giọng cà tửng, An nói:

-Tao ngồi chơi với mầy, chừng nào mầy vô, tao vô luôn.

Suốt mấy năm ở trại, chưa bao giờ An chơi kiểu nầy, vậy mà ngay phút giây sinh tử cuả bọn tôi, không biết ma xui, quỷ giục làm sao hắn lại xuất hiện. Tôi không hề sợ An khai báo nếu biết sự thật, nhưng tôi sợ An sẽ xúc động, không giấu được nét lo âu, có thể làm  bọn “ăng-ten” chú ý, nên năn nỉ hắn:

-Mầy vô trước nấu trà thơm, tao sẽ mang bánh ngọt qua, anh em mình nhâm nhi tối nay.

Thấy An có vẻ chần chừ, tôi đẩy An đi mà lòng chợt bồi hồi, không biết có còn gặp lại nhau nữa không?

Chỉ còn mười phút phù du. Anh Đức vẫn thản nhiên cuốc xới. Cuối cùng, tôi phải quyết định táo bạo. Bước lại gần anh, tôi nói nhỏ:

-Anh vào ngay đi, đừng ở đây bị liên lụy, tụi tôi vượt trại ngay bây giờ.

Anh Đức ngưng cuốc nhìn tôi, mặt tái xanh:

-Vượt trại?

-Ừ! ngaycái ao nầy. Coi như anh chưa từng nghe tôi nói gì, đi ngay đi.

Anh Đức buông cuốc đi một mạch. Anh là người rất hiền lành và tốt bụng nên đã không báo cáo để hại bạn. Nếu tình cờ đọc được những dòng chữ nầy, xin anh Đức nhận nơi đây lời cảm ơn muộn màng của chúng tôi.

Ngay tức khắc, chúng tôi lặn xuống ao, chui vào hầm. Cái hầm rất nhỏ, vừa đủ cho bốn người ngồi ôm nhau thật sát. Chúng tôi chỉ mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi. Mực nước cao sát cằm. Cảm giác đầu tiên giống như bị cù lét, nhột nhạt không thể tả. Cái nhột nhạt do ôm nhau ở dưới nước làm cả bốn người không thể nín  cười được, dù không ai muốn cười trong hoàn cảnh nầy. Càng cố nín cười không thành tiếng, thân mình càng bị run lên và cọ quẹt vào nhau nên, càng nhột nhạt. Càng nhột, lại càng cười. Khoảng hơn mười phút sau, cơn cười mới lắng dần vì ngộp thở. Bọn tôi mệt lã vì thiếu không khí, do lỗ thông hơi quá nhỏ.  Khi vào hầm thử thì chỉ có mình tôi và mực nước thấp, nên không lường được hậu quả nầy. Cả bọn phải dùng tay móc thêm lỗ thông hơi nhưng vẫn không đủ không khí để thở.

Không thể chờ đợi đến gần khuya cho thật an toàn như kế hoạch, tôi quyết định phải chui ra, ngay khi ánh sáng từ lỗ hỏng hơi mờ nhạt. Có lẽ, lúc ấy khoảng hơn bảy giờ. Tôi bới tìm túi quần áo đã chôn dấu, bơi qua hồ cá tra, lần lượt cả bọn bò ra khỏi các hàng rào. Trời tối dần. Nhìn lại vòng đai canh gác, đèn điện sáng choang, thấp thoáng bóng dáng mấy tên vệ binh qua lại và văng vẳng tiếng lao xao của anh em bên trong. Chúng tôi tiếp tục bò đi trong rừng cỏ hoang của đồng tháp chừng một cây số mới dám đứng lên. Quay nhìn một lần nữa khu trại tù với ánh đèn lấp loáng. Vĩnh biệt mi, trại tù hắc ám đang giam hãm cả một thế hệ trai trẻ.

Phiá trước là đồng hoang tối đen như mực. Tương lai mình sẽ về đâu? Tôi tự hỏi với một thoáng hoang mang, nhưng dù sao, lòng đã quyết, không thể tiếp tục khuất phục trước kẻ thù. Cỏ lác cao tận cổ, chúng tôi nắm chặt tay đi hàng ngang vì sợ lạc. Có nhiều lần, bốn tên bất ngờ bị lọt xuống trủng sâu làm điếng hồn, rồi lại bò lên đi tiếp. Đi liên tục khoảng bốn tiếng trong bóng đêm dầy đặc, không nhìn thấy gì ở xung quanh. Có lẽ, Ơn Trên đã làm phép lạ, nên bốn thằng chúng tôi, chỉ vỏn vẹn chiếc quần đùi, đi chân không, chen giữa rừng cỏ lác cao ngang đầu, bằng những bước hối hả, vậy mà không ai bị thương tích hay sướt da. Chúng tôi định hướng được Sài Gòn qua vùng sáng lớn nhất. Nhờ định phương hướng bằng sao trời, chúng tôi tìm ra được hướng Cai lậy và Mỹ Tho, nên quyết định đi về con đường lộ xe chạy – từ Cai lậy đến Vườn đào- rồi băng qua lộ, xuống đồng luá, đi về Trung Lương, từ đó, tìm xe đến  Mỹ Tho. Tiếp tục bước chân trần trên cỏ lát và bóng đêm, cho đến khi cả bọn bị lọt tủm xuống một ao nước sâu mới biết rằng đã kề cận với xóm nhà ven con kinh.

Bơi qua con kinh, tiếp tục đi khoảng hai tiếng nữa về hướng đèn Mỹ Tho thì gặp con kinh lớn cặp ven lộ Cai Lậy. Lúc đó, xem đồng hồ là hai giờ ba mươi sáng. Tôi nghĩ, nếu tiếp tục băng qua lộ đá xuống đồng, đi về Trung Lương như kế hoạch cũ thì có thể đến sáng, cả bốn người còn lang thang giữa đồng. Khu đó là đồng luá, những người làm việc sẽ thấy, vậy chẳng khác nào “lạy ông con ở bụi nầy!”.  Vì thế, tôi quyết định lên lộ đá, đi thẳng ra Cai lậy, đón xe về Mỹ Tho, vì nghĩ rằng bọn cán bộ không bao giờ ngờ chúng tôi dám trốn ra Cai lậy.

Chúng tôi qua lộ đá, tìm chỗ tắm rửa, thay quần áo sạch. Lần nầy, thay đổi chiến thuật là đi công khai. Vừa đi, vừa nói chuyện, đuà giỡn ỏm tỏi như mới đi nhậu về. Thỉnh thoảng, cũng có vài căn nhà ven lộ thức dậy, chuyển hàng xuống ghe. Gặp một chiếc xe máy ba gác chở hàng, chúng tôi đón lại xin quá giang ra chợ. Người đàn ông lớn tuổi không hề thắc mắc, chở chúng tôi đi. Đến Cai Lậy chợ cũng vừa họp. Sau khi mua cho mỗi người một đôi dép, chúng tôi tản ra như bốn người xa lạ, theo xe lam ra đến Mỹ Tho lúc sáu giờ ba mươi sáng.

Khi ghé vào tiệm hủ tiếu ăn sáng – có lẽ, đây là tô hủ tiếu và ly cà phê ngon nhất trong đời tôi –  mới khám phá ra tai cuả tôi và Tước còn dính bùn đất. Sau khi ních một bụng no nê, cả bọn nhìn nhau cười thoải mái, dù chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp. Ăn xong, ba chúng tôi ngồi chờ Đằng tìm địa điểm, nơi sẽ đón bọn tôi. Một tiếng sau, Đằng trở lại cho biết, ở nhà đó, không người nào có tên như mẹ Đằng đã nói. Đến tìm đúng số nhà, nhưng chủ nhà không biết gì cả, và họ lại là người Tàu không rành tiếng Việt – Sau nầy mới biết, trong lần thăm nuôi chót, mẹ Đằng chưa kịp nói đủ mật mã để nhận diện ở Mỹ Tho thì đã bị cán bộ đuổi về. Chúng tôi quá đỗi kinh hoàng, vì không biết đi đâu và sẽ làm gì trong hoàn cảnh nầy. Biết tìm đâu ra chỗ trú ngụ an toàn trong khi chờ Đằng liên lạc với mẹ của anh ở Vũng Tàu? Gần bốn năm trong tù, nay trở về phố lạ, chúng tôi lạc lõng, ngơ ngáo thật tội nghiệp. Ly cà phê bỗng đắng đến rợn người.

Đang miên man suy nghĩ phải giải quyết thế nào, tự nhiên tôi chợt nhớ số nhà cuả Phan Tấn Lộc, người bạn tù cùng tổ khi anh tâm sự về  gia đình. Lộc còn một mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ. Để ba người bạn ngồi lại, tôi vội đón xích lô tìm nhà Lộc. Đến con hẻm nhỏ, tìm đúng số nhà, tôi bước vào thì gặp một bác người Nam còm cõi, áo có nhiều miếng vá. Tôi đoán là mẹ cuả Lộc, nên hỏi vài câu để thăm dò. Khi biết đúng là bà, tôi thú thật là bạn của Lộc đang ở trong tình huống cùng đường. Vừa nghe qua, bà đứng dậy, chạy đến, ôm đầu tôi nghẹn ngào trong nước mắt:

-Con ơi là con! tội nghiệp các con, cứ đưa anh em đến đây đi rồi tính sau.

Tôi xúc động đến lặng người, không nói được lời cám ơn! Lòng can đảm và tình thương vô biên cuả một người mẹ già xa lạ đã cứu chúng tôi trong lúc nguy nan.

Trở lại quán ăn, chúng tôi bàn tính làm sao để cả bốn thanh niên lạ mặt vào nhà bà mà không bị  hàng xóm để ý. Hôm đó là ngày hai mươi chín Tết, chúng tôi giả dạng là những người cháu họ của bà từ  miền Tây đến thăm với nhành mai, dưa hấu trên tay, cười nói vui vẻ bước vào con hẻm. Căn nhà thuê thật chật hẹp nằm trong dãy nhà cuối hẻm gồm bốn căn, ngăn cách nhau bằng những tấm vách gỗ. Từ ngày Lộc đi tù, gia đình chỉ còn bà mẹ và vợ với hai đứa con nhỏ năm, bảy tuổi. Chị Lộc phải đi bán vé số để sinh sống qua ngày. Nhà nghèo đến độ bà mẹ già lom khom ra chợ, nhặt lá cải vụn bị loại bỏ, đem về làm dưa chua ăn Tết, nhặt từng cọng lá chuối khô, rơm rác bỏ phế ở để làm củi. Bao nhiêu tiền bán vé số cuả chị Lộc đều dành mua thực phẩm đi thăm nuôi Lộc. Gia đình chỉ sống lây lất qua ngày bữa cháo, bữa rau không đầy bụng.

Hôm đó, chúng tôi trú ngụ trong phòng của chị  Lộc – thật ra chỉ là một chiếc  giường tre, được ngăn bằng  tấm màn vải – để chờ chị  Lộc đi Bến Tre liên lạc với người bà con, nhờ họ báo cho mẹ của Đằng ở Vũng Tàu tìm cách đưa chúng tôi đi khỏi Mỹ Tho. Chúng tôi nằm chờ tin. Một ngày, một đêm chầm chậm trôi qua chừng như nghẹt thở! Đến trưa ngày hôm  sau –ba mưoi Tết-  chị Lộc trở về nhà, với nét  mặt hốt hoảng chị cho  biết,  bé Thành, con trai nhỏ của chị, sang khoe với đứa bạn ở căn nhà sát vách “nhà tao có bốn chú trốn tù”. Mẹ của đứa bé nghe được liền cho chị Lộc biết. Không bao lâu, có một tên công an trẻ đi đến nhà bên cạnh, chẳng biết làm gì, rồi hắn lại đi một cách vội vã. Trong lo âu, hồi hộp, chúng tôi bàn cách đối phó, nếu bị khám nhà bất ngờ và tìm cách ra khỏi căn nhà nầy mà không phải đi bằng lối ra vào duy nhất là con hẻm nhỏ phía trước. Đây là con hẻm cụt, phía sau dãy nhà chị Lộc là một cái ao nước đen, không có đường đi. Xóm nhà trong hẻm nầy chỉ có mấy căn, ai cũng biết nhau. Hai ngày qua, chúng tôi im phăng phắc trong nhà, bây giờ tự nhiên có bốn người thanh niên lạ bước ra, rất dễ bị để ý và nghi ngờ. Bên phải nhà chị Lộc là một căn nhà lầu cao, có rào kẽm gai bao quanh. Chị Lộc cho biết, nhà nầy có cô gái tên Nhung là bạn thân của chị.  Tôi thầm nghĩ, đường thoát ra ngoài đã có chút ánh sáng.

Vách nhà chị Lộc bằng gỗ cũ kỹ, sát với hàng rào kẽm gai nhà bên cạnh. Nếu được sự thương tìnhcủa chị Nhung, chúng tôi sẽ cắt vách, cắt rào, chui qua nhà chị là có thể đi thẳng ra đường lớn phía trước, không phải qua con hẻm. Đánh bạo một ván bàn tẩy, tôi xin chị Lộc mời chị Nhung sang để nhờ chị giúp đỡ. Nhìn bốn  tên tù vượt ngục quá đỗi thảm thương, nên chị Nhung đồng ý. Chị trở về nhà, cắt một lỗ rào, bên nầy tôi cắt một lỗ ván dưới ngay gầm giường và chui qua sân sau nhà chị Nhung. Từ nhà chị Nhung, chúng tôi tản ra phố Mỹ Tho đến một giờ đêm mới trở lại để dò la tình hình. Thấy có vẻ bình thường, chúng tôi chui rào, qua vách để trở lại nhà chị Lộc. Đêm hôm sau cũng “di tản” như thế. Ban ngày, thay phiên nhau gác ở cửa trước và lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chui qua lỗ rào thoát thân, nếu công an tới khám nhà.

Đến sáng ngày mùng hai Tết, mẹ của Đằng nhận được tin đã đến đưa chúng tôi đi Vũng Tàu. Mọi người đều mừng khi vượt qua được một đoạn đường khó khăn. Mẹ và vợ của Lộc đã tiễn chúng tôi đi với hàng nước mắt. Ôm vai tôi, mẹ của Lộc nói:

-Mẹ cầu cho các con đi bình an vô sự. Khổ cho các con!

Tôi chỉ biết cầu Chúa ban phước lành cho người mẹ già và gia đình nhân ái nầy. (Năm 1987, gia đình Lộc đã được một người quen cho đi vượt biên. Hiện nay, anh chị Lộc rất thành công tại SC).

Khi ngang qua Sài Gòn, tôi xin được vài mươi phút để ghé thăm Nguyệt, người con gái tôi yêu và yêu tôi, đã mòn mỏi đợi chờ tôi suốt tám năm qua. Lúc ấy, tôi đang học quân sự ở Đà Lạt. Ra trường, nhận đơn vị chiến đấu, ngày từng ngày đối diện với cái chết, tôi không dám nghĩ đến chuyện kết hôn. Trong những năm tôi đi tù, em đã ba lần tìm kiếm để thăm tôi. Lần thăm cuối cùng ở Vườn Đào, tôi đã nhét vào tay em một lá thư thay lời vĩnh biệt, vì tôi không biết tương lai mình ra sao khi vượt trại. Gặp nhau, hai đứa nghẹn ngào, không nói được những gì cần phải nói đã đến phút chia tay. Em – người con gái yếu đuối với tình yêu bất hạnh. Tôi – người trốn tù biệt xứ hôm nay. Cuộc tình này rồi sẽ đi về đâu?  Vừa ngỡ ngàng như đang trong giấc mơ, vừa hoang mang không biết nên hy vọng hay tuyệt vọng trong niềm đau hay hạnh phúc. Trong thời khắc ngắn ngủi còn lại, chúng tôi lặng yên như khối đá, tay nắm tay, không nói được một lời.

“Em lặng nhìn rất vội lúc chia phôi,

Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ” (2*)

Chỉ hai câu thơ nầy mới diễn tả trọn vẹn tâm trạng chúng tôi trong giây phút cuối cùng còn được nhìn thấy nhau. Nhìn em nhạt nhòa trong dòng nước mắt, với câu hỏi như lời ai oán “Bao giờ mình sẽ gặp lại hở anh?”.Tôi lắc đầu “Anh không biết!” rồi vội vã ra khỏi cổng rào. Nhưng chỉ vài bước tôi quay lại, cầm tay em nói một cách quả quyết “Anh tin mình sẽ có ngày gặp lại”, rồi cúi đầu bước nhanh vào dòng người đang ngược xuôi trên đường phố. Những giọt nước mắt nghẹn ngào, đau xót cùng với tình yêu chung thủy, nồng nàn cuả em trong những ngày tháng cùng cực, bi thảm ấy đã là sợi chỉ hồng tươi thắm, cột chặt cuộc đời chúng tôi vào nhau cho đến ngày hôm nay và suốt quãng đời còn lại.

Ở Vũng Tàu mười ngày, cứ đêm đến, để an toàn, bốn anh em chúng tôi phải trèo tường lên nóc nhà để ngủ. Ngày qua ngày, chúng tôi chờ đợi trong lo âu hồi hộp mà vẫn không liên lạc được với nhóm kháng chiến nào! Khi hỏi ra mới biết, sự thật mẹ Đằng cũng chỉ nghe đồn thôi chứ chưa hề gặp họ. Đến nước nầy đành phải trở lại Sài gòn để tìm chỗ nương thân.

Trở lại nhà Nguyệt, tôi được ba má em đón tiếp ân cần và sẵn sàng chứa chấp cho đến khi nào có đường đi. May mắn cho tôi, lại một lần nữa gặp được tấm lòng nhân hậu vô lượng. Sáu tháng trôi qua vẫn chưa bắt liên lạc được với đường dây kháng chiến nào. Tình yêu chúng tôi càng thêm tha thiết, mặn nồng. Em nhất quyết, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chờ đợi tôi và chỉ yêu một mình tôi. Thế là chúng tôi vui vẻ đánh ván bài liều: làm lễ hỏi – thật kín đáo, chỉ trong gia đình – và tìm đường vượt biên.

Ba tháng sau, tôi bắt được đường dây vượt biên ở Rạch Sỏi, nhưng vì không đủ tiền tôi đành bỏ lại sau lưng mối tình sâu đậm, một mình dấn thân vào nơi sóng gió. Đêm chia tay nhau, em chỉ toàn nước mắt và nước mắt. Tôi bước chân đi mà lòng đau như cắt.

Trên đường đưa ra tàu lớn ở Sông Cái, chiếc ghe nhỏ chở  tôi và Bửu bị chận bắt ở đồn công an Rạch Sỏi, với đầy đủ  hải bàn và hải đồ trên ghe. Tôi nghĩ, nếu lọt vào tay bọn chúng thì chỉ có một con đường duy nhất là chết. Vì vậy, lợi dụng lúc tên công an đang mò mẫm từng chữ để viết báo cáo, tôi ngầm ra hiệu cho bác lái tàu. May mắn thay, bác bắt được ý tôi. Bất thần tôi phóng xuống ghe, bác tài giật máy và chiếc ghe lướt đi giữa những làn đạn bay vun vút trên đầu.

Về lại Sài gòn sau hai tuần lưu lạc, nhìn người vợ chưa cưới của mình héo hắt như cọng cỏ khô mà lòng tôi xót xa, bồi hồi. Gặp lại nhau, em mừng vui như tôi vừa sống lại. Ngay giây phút ấy, tôi nói với em, sẽ không bao giờ tôi đi một mình nữa, dù ở lại có chết cũng cam lòng. Từ đó, tôi bắt đầu một cuộc phiêu lưu để tìm đường vượt biên. Tôi lặn lội, tìm kiếm những bạn bè ở vùng sông biển để rủ rê, bàn tính kế hoạch. Nhưng với hai bàn tay trắng, không một đồng dính túi, bạn bè, đứa nào cũng nghèo xác, nghèo xơ, nên cuối cùng tôi đành phải vào làm công cho một lò đường ở ven sông Cửu Long, thuộc tỉnh Vĩnh Bình, để chờ thời cơ. Nhớ những ngày vác mía trầy trụa đôi vai, đầu bù tóc rối mà thương cho những người cơ cực trong cuộc sống.

Gặp lúc chủ lò đường làm ăn khó khăn, nợ nần tứ phía, không biết cách nào giải quyết, tôi khuyên nên tổ chức vượt biên, tìm khách đóng đủ số vàng đang cần, để lại cho gia đình trả nợ rồi ra đi. Người chủ đồng ý, chúng tôi bắt tay nhau tiến hành, sửa chữa chiếc ghe “cà dom” nhỏ, dài chín mét, ngang hai mét. Tôi đi một vòng để tìm người góp tiền vượt biên. Lặn lội tìm bạn bè khắp nơi từ Châu Phú, Long Xuyên, qua Phụng Hiệp, Cần Thơ, Long Hải đến đâu cũng gặp tình cảnh nghèo xác xơ của những người bạn mới ra tù. Từ giã bạn, tôi bước đi mà lòng chua xót, tội nghiệp bạn mà cũng tội nghiệp cho chính thân mình.

Tôi bắt đầu học lái ghe trên sông và đi qua lại các trạm biên phòng nhiều lần để dò đường. Từ sông ra biển không có gì đáng ngại. Nhưng ra đến ngoài biển thì làm sao lái tàu đến nơi? Một bài toán nan giải. Những ngày về Sài gòn, tôi lang thang trong chợ sách cũ để tìm… Ngày từng ngày vẫn hững hờ trôi qua. Bỗng một hôm, tôi nhìn thấy quyển sách có nhan đề “Cách xử dụng hải bàn khi đi biển” treo lơ lửng trên sợi dây trước cửa hàng  sách. Chúa ơi! có phải Ngài đang ra tay! Tôi cầm ngay cuốn sách và hỏi giá. Cô bán sách tươi cười với đôi mắt có đuôi:

-Chỉ có tám mươi đồng thôi anh ơi! .

Móc hết tiền trong túi, chỉ vỏn vẹn có mười đồng. Tôi năn nỉ:

-Cô làm ơn cho tôi đặt tiền cọc và cất quyển sách này vào trong dùm, chiều nay tôi sẽ trở lại mua.

Tôi chạy đi tìm Nguyệt, lúc đó đang làm việc ở trường Dược. Hai đứa tìm Tuyết Nga, đứa em nuôi, cầu cứu. Nga cũng không có tiền, nên cho mượn chiếc máy may để đem cầm. Tôi trở lại mua sách với tất cả sự hân hoan và niềm hy vọng.

Trở lại Vĩnh Bình, tôi tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa chiếc ghe và trôi nổi, thao dợt nhiều ngày tháng trên sông. Ngày 19 tháng 3 năm 1982, vợ chồng tôi xuống tàu ra khơi khi đứa con gái đầu lòng vừa sinh được một tháng mười tám ngày. Vượt qua một đêm sóng gió kinh hoàng, tưởng cả tàu đã chìm nghỉm trong những lượn sóng đen ngòm như bàn tay tử thần vươn tới. Sau ba ngày lênh đênh trên biển chẳng biết đâu bờ bến, chỉ nhìn sao và hải bàn, định hướng Nam mà đi. Nước uống và lương thực trên tàu đã gần cạn, tôi vô cùng lo lắng. Đến đêm thứ ba, nhiều người trên ghe nhìn thấy ánh sáng chợt hiện, chợt tắt ở hướng Đông, mọi người cho rằng đó là đất liền, nên yêu cầu tôi đổi hướng. Tôi hoang mang, vì theo hải đồ phải đi hướng Nam mới đến Nam Dương (Indonesia), còn hướng Đông thì vào vô tận… làm sao tôi dám đổi hướng với những dự đoán mơ hồ. Nhưng nếu tôi vẫn giữ hướng nầy và nếu tàu đi biền biệt …? Trong nỗi phân vân lo lắng tôi chắp tay cầu nguyện “Khi xưa Thánh GiuSe và Mẹ Maria đã đưa Chúa vượt biên sang Ai Cập để tỵ nạn, nay chúng con cũng vượt biển nguy nan. Con xin phó thác trong tay Chúa, xin Ngài cho một dấu hiệu để con biết đường nào đúng để đi!”. Vài phút sau, một ánh sao băng từ giữa bầu trời rơi xuống chân trời thật chậm, đủ để tôi nhìn vào hải bàn và thấy đúng ngay hướng ghe đang đi. Tôi mừng rỡ, vì tin rằng đó là dấu chỉ nhiệm mầu. Và bằng niềm tin vững vàng, tôi thông báo với mọi người rằng tôi quyết định không đổi hướng.

Ngày hôm sau, chiếc ghe nhỏ mỏng manh giữa trùng dương mang theo ba mươi ba người, trong đó có một đứa bé vừa ra đời, chưa tròn hai tháng và một em bé còn trong bụng mẹ, gặp được tàu giàn khoan của Mỹ. Chiếc tàu lớn đã vớt chúng tôi, vì có người phụ nữ đang chuyển bụng sắp sinh con và sau đó đã đưa chúng tôi vào đảo Kuku, Indonesia.

Vừa tới bờ, sắp xếp xong chỗ ở, tôi bước vào căn nhà nguyện nghèo nàn trên đảo, hai bên vách đầy những hàng chữ nguệch ngoạc tạ ơn. Tôi quỳ phục xuống đất, nước mắt tuôn trào. Trong những dòng nước mắt hạnh phúc vì đã vượt qua được muôn ngàn gian truân, nguy hiểm, có những giọt lệ xót xa khi biết rằng mình đã bỏ lại quê hương thân yêu ở phía sau, nơi đó có mẹ già và anh chị em, biết đến bao giờ mới gặp lại []

Trần Yên Hạ

 

(1*) thơ Thảo Nguyên

(2*) thơ Uyên Thao

 Nguyễn Xuân Vinh (January 1, 1930 – July 23, 2022) was a Vietnamese-American aerospace scientist and educator. Vinh was Professor Emeritus of Aerospace Engineering at the University of Michigan, where he taught for nearly thirty years. His seminal work on the guidance, dynamics and optimal control of space vehicles and their interaction with the atmosphere played a fundamental role in space exploration and technological development.[4][5][6][7

                      


1/ Thay thế các chữ bằng trị số tương ứng.

NGUYỄN = 536155 = 25 = 7

XUÂN = 5615 = 17 = 8

VINH = 6155 = 17 = 8

Cộng lại: 7 8 8 = 23 = rất may mắn theo LTS.

Số 23 – Ngôi Sao Huy Hoàng của Sư Tử

(The Royal Star of the Lion)
Đây là số may mắn do hưởng phước đã tạo từ kiếp trước (karmic reward number) (1). Số 23 ban cho (bestows), không những chỉ là một hứa hẹn sẽ thành công trong nhửng nỗ lực ( endeavors) thuộc về cá nhân và nghề nghiệp, mà còn bảo đảm có sự giúp đỡ từ thượng cấp (help from superiors) và sự che chỡ/bảo vệ từ những người có địa vị cao ( protection from those in high places). Đây là một số rất may mắn, và số này ban phát (blesses) dồi dào hồng ân (abundant grace) cho người hoặc thực thể (entity) tượng trưng bởi số này. Số này, cũng nên được xem xét với những số khác (như ngày sanh hay tên) để có một sự phân tách toàn diện dựa theo lý thuyết số (full numerological analysis), điều này có thể đưa đến một kết quả không hoàn toàn may mắn. Nhưng trong những giai đoạn khó khăn, những số khác không có nhiều cơ hội tạo ra (bring about) sự rắc rối nghiêm trọng (serious trouble) khi có sự hiện diện của Ngôi Sao Huy Hoàng này của Sư Tử. Không số nào có thể thách thức với sức mạnh (strength) của Sư Tử và thắng được nó. / .
(Dịch từ trang 259 của quyển Linda Goodman’s Star Signs.)

Chú thích: (1) tỉnh từ Karmic xuất phát từ danh từ Karma, tiếng Phạn (Sanskrit) có nghĩa là hành động/số mệnh/nghiệp. Ấn độ giáo và Phật giáo tin rằng nghiệp là những hành động/việc làm của con người trong những kiếp trước, và (nghiệp này) sẽ quyết định số mạng của con người đó trong những kiếp sống sau này.
Viết khi đọc tin GS Nguyễn Xuân Vinh, cựu lịnh Không Quân VNCH, từ trần NGÀY 23/7/2022, thọ 92 tuổi.
TB. Theo LTS, những ai sanh ngày 1 tây, đi làm ở đâu cũng là xếp, là cấp chỉ huy, ít khi dưới quyền ai.

Friday, July 29, 2022

Được mang danh là người tiên phong trong cách mạng máy tính cá nhân, tỉ phú này đóng góp rất nhiều cho nhân loại, chứ ko phải là loại phất nhanh nhờ phân lô bán nền như Vượng Vin!

Tượng của ông được dựng ở Hungari.

               


Steve Jobs tên thật là Steven Paul Jobs sinh ngày 24/02/1955. Chết ngày 5/10/2011, thọ 56 tuổi.


1/ Dựa vào ngày sanh thì ta ko còn gì để bàn cải vì số 24 là một số rất may mắn trong LTS.

2/ Vì tên thường dùng của ông là Steve Jobs nên ta phân tách tên này.

STEVE = 34565 = 23 = 5

JOBS = 1723 = 13 = 4.

Vì 5 + 4 = 9 nhỏ hơn 10, nên ta phải cộng hai số 23 và 13:  23 + 13 = 36. Theo LTS, số 36 có cùng ý nghĩa với 27, một số rất may mắn. Sau đây là ý nghĩa của số 27. 

Gậy chỉ huy
Đây là một số xuất sắc, hài hòa, và may mắn của can đảm và quyền lực, với một nét quyến rũ (a touch of enchantment). Số này phù hộ cho người hay thực thể mà nó đại diện với một hứa hẹn về quyền lực và chỉ huy. Nó bảo đảm rằng các phần thưởng lớn sẽ đến từ những công việc hữu ích/có kết quả (productive labor), trí tuệ (intellect), và tưởng tượng, rằng những năng lực (faculty) sáng tạo đã gieo mầm tốt sẽ chắc chắn gặt hái một vụ mùa tốt (reap a rich harvest). Những ai hay thực thể đại diện bởi số 27 sẽ luôn luôn tiến hành những ý nghĩ và dự định riêng của họ, ko bị dọa nạt (intimidate) hay ảnh hưởng bởi ý kiến khác biệt hay chống đối từ kẻ khác. Đây là số do NGHIỆP TỐT, đã đạt được từ nhiều kiếp trước.

Dịch từ trang 261 của sách Linda Goodman's Star Signs.

========== 

Steven Jobs (February 24, 1955 – October 5, 2011) 

was an American entrepreneurindustrial designerbusiness magnatemedia proprietor, and investor. He was the co-founder, the chairman, and CEO of Apple; the chairman and majority shareholder of Pixar; a member of The Walt Disney Company's board of directors following its acquisition of Pixar; and the founder, chairman, and CEO of NeXT. He is widely recognized as a pioneer of the personal computer revolution of the 1970s and 1980s, along with his early business partner and fellow Apple co-founder Steve Wozniak.

Thursday, July 28, 2022

Lời cầu nguyện được đáp ứng.

Hôm nay tôi viết về "các quí nhân vô hình đã nhiều lần giúp tôi vượt qua những khó khăn hay nguy hiểm của cuộc đời" như:

1/ Nhờ cầu nguyện, khoảng cuối năm 1978, tôi đã hoãn chuyển trại ngay trong đợt đầu, từ trại tù Phong Quang của CA, gần Lào Cai, sát biên giới TQ, đến trại Nam Hà, ở Phủ Lý. Tôi rất sợ chuyển trại vì phải di chuyển bằng xe Molotova bịt kín mui, đứng hay ngồi rất chật chội. Lần đó, một số đội đã tập họp tại hội trường của trại để nghe đọc tên. Lúc đó tôi đang bị tiêu chảy nên tôi cầu nguyện khi nào hết bịnh thì chuyển trại. Sau khi cán bộ trại đọc tên xong, y hỏi, "Có ai ngồi ở đây mà ko có tên trong danh sách này?"; và chỉ có tôi và một anh bạn khác dơ tay. Thế là tôi được ở lại. Đợt kế tôi cũng chưa đi và chỉ đi vào đợt chót. Lần đó, chúng tôi, cứ hai người còng chung 1 cái còng, nghĩa là anh nào đái ỉa thì anh kia cũng đi theo!  

2/ Đầu năm 1981, tôi được phóng thích ngay tại trại Nam Hà B, thay vì phải chuyển trại vào Nam. Trước đó, tôi cầu nguyện rằng "thà ở tù lâu hơn còn hơn chuyển trại vào nam". Vì tôi biết rằng khi chuyển trại cứ hai người  bị còng chung 1 còng. Anh Nghỉ (nay đã chết) và anh L. đang ở Canada, từng ăn cùng mâm với tôi, đã lần lượt được chuyển trại. Sau này tôi biết họ chuyển trại bằng xe lửa, cứ 2 người một còng, về trại Z-30A gần Hàm Tân, để ở thêm 1 hay 2 năm mới thả ra. 

3/ Năm 1993, thay vì hối lộ bác sĩ CA phụ trách về X-quang hay uống nước ngọt 7-Up pha với calcium để phổi trong (theo lời khuyên của bạn bè), tôi ko làm như vậy nhưng vẫn đi Mỹ dù chỉ là BỘ XƯƠNG. Anh em HO rất sợ bị nám phổi vì phải ở thêm 6 THÁNG để uống thuốc: mỗi ngày phải đến bv CA (kế chợ An Đông) uống thuốc trước y tá, nếu bỏ một lần, sẽ uống thêm 6 tháng! Tôi nói với bạn bè, nếu phải ở lại thêm 6 tháng để mỗi ngày đến bv uống 1 viên thuốc ngừa lao, tôi sẽ ko đi Mỹ.

Qua Mỹ tôi đã quí nhân vô hình giúp đỡ nhiều lần (sẽ kể dịp khác). 

Theo LTS, sở dĩ tôi được quí nhân vô hình hỗ trợ vì đã làm nhiều điều tốt trong các kiếp trước cũng như trong kiếp này. Hơn nữa, lời cầu nguyện phải HỢP LÝ và CHÍNH ĐÁNG, chứ nếu cầu nguyện trúng số độc đắc SuperLotto, để lấy vợ đẹp thì ko bao giờ được đáp ứng!

Ảnh chụp khoảng năm 1994 tại nhà trong một hẻm nhỏ đường Nguyễn thị Minh Khai, tên cũ Hồng thập Tự quận 1 Sài Gòn.

                       


Wednesday, July 27, 2022

 TÔN = 475 = 16 = 7

THẤT = 4514 = 14 = 5

TRÂN = 4215 = 12 = 3

Monday, July 25, 2022

 LỜI PHẬT VẪN HỢP VỚI KHOA HỌC, DÙ ĐÃ CÓ TRÊN 2.500 NĂM. 

- Có lẽ Phật là một trong những ông tổ của chủ nghĩa HOÀI NGHI.-- Tài. 


"1/ Không tin tưởng vào bất cứ điều gì chỉ vì bạn nghe nói tới điều đó (you have heard it).

2/ Không tin tưởng vào bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được nói (it is spoken), hay đồn đại (rumoured) bởi nhiều người.

2/ Không tin tưởng vào bất cứ điều gì bởi vì điều đó được viết trong các sách của tôn giáo của bạn (found written in your religious books).

4/ Không tin tưởng vào bất cứ điều gì đơn thuần (merely) vì được nói bởi các sư phụ (teachers) hay huynh trưởng (elders) của bạn.

5/ Không tin tưởng vào những truyền thống (tradition) bởi vì những truyền thống đó đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ (have been handed out for many generations).

6/ Nhưng chỉ sau khi quan sát và phân tích, khi bạn thấy bất cứ điều gì hợp với lẽ phải (reason) và điều này dẫn tới (conductive) điều tốt (the good) và ích lợi (benefit) cho mọi người (of all and all/everyone), khi ấy bạn hảy chấp nhận và sống với điều đó (accept and live up to it)".

Trên đây là lời Phật - được dịch từ quyển Mindfullness-Based Cancer Recovery của Linda Carlson, Ph.D., R.Psych và Michael Speca, Psy.D., R. Psych. Lời mở đầu của Zindel Segal, Ph.D. Sách dày 187 trang. Xuất bản năm 2010 bởi Nhà xuất bản New Harbinger Publications, Inc. 

Nhận xét : dù Phật sống cách đây trên dưới 2.500 năm (563 - 483 trước công nguyên) nhưng tư tưởng trên đây của ngài rất hợp với tinh thần khoa học ngày nay.