Wednesday, February 15, 2012

LÝ DO GÌ KHIẾN THUA TRẬN MÀ LẠI TRỞ THÀNH CƯỜNG QUỐC TRÊN THẾ GIỚI hay THÀ LÀM TỚ THẰNG KHÔN CÒN HƠN LÀM THÀY THẰNG DẠI !!!

Chúng ta hảy xem xét nước Nhật : từ một nước THUA TRẬN năm 1945 : với đất nước gần như là một ĐỐNG GẠCH VỤN KHỔNG LỒ sau nhiều đợt bom trải thảm của Mỷ (với hàng trăm , hàng ngàn máy bay Mỷ tham dự , ném bom nổ và bom cháy xuống thủ đô Đông kinh và các thành phố lớn , gây nhiều đám cháy khủng khiếp trong nhiều ngày ) cộng với hai quả bom nguyên tử xuống Trường kỳ và Quảng đảo ; với hàng triệu người thất nghiệp (trong đó rất nhiều cựu quân nhân vừa rả ngủ) ; với không biết cơ man người vô gia cư sống lây lắt ở đầu đường góc chợ ; với rất nhiều phụ nử phải NGỦ với lính Mỷ để có một Ổ BÁNH MÌ ; với NẠN ĐÓI đang lơ lửng trên đầu – mà theo dự báo có thể CẢ TRIỆU NGƯỜI CHẾT , v.v... Tình hình lúc đó RẤT BI ĐÁT VÀ NAN GIẢI vì rất nhiều vấn đề nẩy sinh đối với chính quyền thua trận Nhật và lực lượng chiếm đóng Mỷ . (Tôi đả có nhiều bài với hình ảnh , dịch từ báo Mỷ LIFE , trên blog của tôi) .
Thế mà , dưới sự cai trị của người Mỷ và BỊ ÁP ĐẶT một hiến pháp , gần như rập khuôn của Mỷ (1) , chỉ 19 NĂM SAU , NĂM 1964 , Nhật đả tổ chức HỘI CHỢ QUỐC TẾ OSAKA và cùng năm , khánh thành đường xe lửa cao tốc ĐẦU TIÊN trên thế giới với tốc độ trên 200 km/g . Xe chạy êm đến nổi , nước trong ly không bị sóng sánh (theo báo Popular Science của Mỷ) . NĂM KẾ , 1965 , tổ chức THẾ VẬN HỘI MÙA HÈ TOKYO .
Còn Việt nam , sau ĐẠI THẮNG 1975 , thống nhứt đất nước , đến nay ĐẢ 37 NĂM , chiếm thứ hạng nào ở Á châu ?
Khi với biết bao tin tức về nhửng cái ÁC và BẤT CÔNG XẢ HỘI xuất hiện ngày càng nhiều trên báo chí đến độ , RẤT NHIỀU NGƯỜI không muốn đọc báo vì CHÁN NẢN và VÀ CẢM THẤY MÌNH BẤT LỰC vì không thể làm gì để cứu vản tình hình này !?! Tôi nghỉ , có thể bạn củng ở trong số này . /.

(1) Hiến pháp này chính là cái khung để lập nên một nhà nước PHÁP QUYỀN (với TAM QUYỀN PHÂN LẬP) trên một nước trước đây đả theo chế độ độc tài quân phiệt .


- - - -

Xin các bác 'tự sướng' với chuyện cười sau .

Chuyện xảy ra ở một nước độc tài ở Phi châu : tổng thống và toàn bộ nội các của ông dùng máy bay đi thăm một địa phương . Trong khi máy bay đang bay , TT nổi hứng mở cửa sổ , ném ra ngoài một tờ 1 đô và nói với mọi người : “hôm nay sẻ có một người dân hạnh phúc !”
Lát sau , Ngài lại ném mười tờ 1 đô và nói : “hôm nay sẻ có 10 người dân hạnh phúc!! “
Một lát sau , Ngài lại ném một trăm tờ 1 đô và nói : “hôm nay sẻ có 100 người dân hạnh phúc !!”
Một nhà báo Tây phương ngồi gần đấy thấy cảnh này , đến gần và nói với TT : “Thưa Tổng thống , nếu Ngài và toàn bộ nội các của Ngài cùng nhau nhảy ra khỏi máy bay , thì nhân dân CẢ NƯỚC sẻ được hạnh phúc , chứ ko phải chỉ có 100 người đâu !!!”


Tuesday, February 14, 2012

 

Báo chí Việt Nam thời thuộc địa ( nhân ngày báo chí Việt Nam 21/6


Tặng các nhà báo Việt Nam- bạn tôi.
Đặng Thị Vân Chi
Những tờ báo đầu tiên
        Ngay từ những ngày đầu xâm lược Việt Nam, báo chí đã được thực dân Pháp sử dụng như một công cụ phục vụ quá trình xâm lược của Pháp. Lịch sử cũng như nội dung các báo thời kì này phản ánh rõ quá trình xâm lược của thực dân Pháp cũng như vai trò phục vụ công cuộc xâm lược của báo chí. Ví dụ ngay trong quá trình xâm lược Nam Kỳ, Pháp đã ra tờ Nam kì viễn chinh công báo năm 1861. Đến năm 1865 sau khi ba tỉnh còn lại của Nam Kỳ bị thôn tính thì tên báo được đổi là Nam Kỳ thuộc Pháp công báo và đến năm 1889, khi nền thống trị của Pháp được xác lập trên toàn cõi Việt Nam thì báo lại được đổi tên Đông Dương thuộc Pháp công báo...
         Các tờ công báo này đăng tải các  nghị định, công văn, đạo luật, các chỉ thị của bộ máy thực dân, các bài diễn văn của thống đốc Nam Kỳ lưu hành chủ yếu trong đám sĩ quan và viên chức thực dân, vì vậy tất cả đều là báo bằng tiếng Pháp.
        Bên cạnh những tờ công báo bằng tiếng Pháp naỳ, Pháp còn cho ra tờ báo chữ Hán Xã thôn công báo để phổ biến những quyết định, những mệnh lệnh của đội quân xâm lược tới đám chức sắc bản xứ cộng tác với Pháp. Ngoài ra, Pháp còn cho xuất bản những tờ báo phục vụ công cuộc khai thác kinh tế  như tờ Tập san của Uỷ ban canh nông Nam Kỳ) năm 1865Công báo của Uỷ ban nghiên cứu nông, công, thương Trung Kỳ và Bắc Kỳ năm 1889
        Theo bài báo “Thử tìm long mạch của tờ báo ta” do tác giả Quán Chi khảo cứu đăng trên Trung Bắc chủ nhật từ số 101(3.3.1942) đến số 104 (29.3.1942) thì chữ quốc ngữ đã được dùng khá phổ biến ở Nam Kỳ từ trước khi tờ báo Tiếng Việt đầu tiên ra đời là tờ Gia Định báo xuất bản ngày 15/4/1865. Gia định công báo lúc đầu chỉ là một tờ tuần báo chủ yếu đăng những thông tư, chính luận của chính quyền thực dân, một số bài thơ, vài câu chuyện hài đàm, chuyện cổ tích... chưa phải là một tờ báo có tính chất thông tin và truyền bá tư tưởng. Sau Gia định báo, tờ báo tiếng Việt thứ hai là tờ Phan Yên báo xuất bản năm 1868 và Nam Kỳ địa phận xuất bản  năm 1883 cũng có nội dung tương tự.
Về thực chất các tờ báo này cũng chỉ là công cụ của Pháp trong quá trình xâm lược. Nội dung của các tờ báo chỉ đơn giản là dịch đăng  những tờ công báo tiếng Pháp sang tiếng Việt cho người Việt đọc như các công văn, giấy tờ, các văn kiện của chính quyền thực dân hoặc những tờ thông báo, cáo thị, tình hình giá cả, thuế khoá của sở thuế, phòng thương chánh, toà thị chánh... Shawn.F.Mc. Hale trong công trình nghiên cứu  “n phẩm và quyền lực”của mình đã nhận xét : “Chính quyền thuộc địa Pháp cần rất nhiều tài liệu in ấn (mẫu đơn từ, hoá đơn, baó cáo...) để hoạt động một cách trôi chảy (có người đã cho rằng chính phủ thực dân cần giấy nhiều như vũ khí để giữ người dân dưới sự kiểm soát của họ)”[1].
        Những người Việt tham gia viết báo thời kỳ này hầu hết là những viên chức của chính quyền thực dân thông thạo chữ Hán, chữ Pháp, chữ quốc nhữ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Tôn Thọ Tường, Lương Khắc Ninh...
       Cùng với báo chí, thực dân Pháp đã sớm ban hành những đạo luật, sắc lệnh về báo chí cho Đông Dương. Sắc lệnh ngày 30/12/1898 đã đình chỉ việc thi hành luật tự do báo chí ngày 29/7/1881 của chính phủ Pháp ở Đông Dương. Theo sắc lệnh này việc thành lập một tờ báo  hay xuất bản phẩm định kì bằng bất cứ thứ tiếng nào đều có thể  bị đình chỉ bởi nghị định của quan Toàn quyền và không một tờ báo tiếng Việt nào có thể xuất bản nếu không được phép của quan Toàn quyền. Giấy phép xuất bản chỉ được cấp với điều kiện là văn bản các bài đem đăng báo phải được quan Toàn quyền Đông Dương duyệt y. Giấy phép này có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Việc cấp giấy phép cũng rất hạn chế. Ví dụ ở Nam Kì từ năm 1927 đến năm 1933 có hơn 77 đơn xin ra báo nhưng chỉ có 13 tờ báo được xuất bản [2] các tờ báo đều phải nộp tiền kí quỹ. Các bài báo đều bị sở báo chí của chính quyền địa phương kiểm duyệt trước. ( Các bài báo được Sở mật thám Pháp dịch sang tiếng Pháp rồi đưa sang sở báo chí kiểm duyệt). “Khi báo lên khuôn, thanh tra nhà in đến nhà in đọc từng dòng những bài bình luận, phần tin tức quốc tế và các bài tường thuật những cuộc du hành quan phương”[2]. Cho đến năm 1914, ở Đông Dương có tới 16 sắc lệnh của Tổng Thống Pháp và 20 nghị định của Toàn quyền và Thống sứ có liên quan tới báo chí đã được ban hành. Như vậy thực tế là đã không có tự do báo chí mà chỉ có lưỡi kéo của chế độ kiểm duyệt.
        Tình trạng này được duy trì và khẳng định lại một lần nữa bằng luật báo chí ngày 4/10/1927 và kéo dài cho đến năm 1938 mới được bãi bỏ nhờ phong trào bình dân những năm 1936-1939.
Báo chí tiếng Việt những năm đầu thế kỷ XX
         Sang đầu thế kỉ XX, quá trình đô thị hoá cũng như sự phát triển của tầng lớp thị dân, lối sống thị dân, những hoạt động công thương nghiệp...đã tạo điều kiện cho báo chí phát triển phong phú hơn. Báo chí thời kì này không còn là của riêng chính quyền thực dân nữa mà đã xuất hiện những tờ báo tư nhân. Về nội dung, các báo cũng không đơn thuần là những tờ công báo nữa mà phản ánh quyền lợi của giới kinh doanh công thương nghiệp cũng như phản ánh những chuyển biến trong tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của Việt Nam lúc bấy giờ. Đáng chú ý là một số tờ như Nông cổ mín đàm, Đại Nam Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo đã bàn nhiều về vấn đề văn hoá xã hội như tuyên truyền cho xu hướng canh tân hoặc đả phá chế độ khoa cử lỗi thời, những hủ tục...Tờ Đại Việt tân báo do E. Babut sáng lập và Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Theo Quán Chi thì Đào Nguyên Phổ là người có công đầu trong việc dịch đăng các tư tưởng mới và các sách Tân thư phổ biến trên báo. Có một hiện tượng đáng chú ý là ngay từ rất sớm vấn đề phụ nữ đã được đưa lên mặt báo, vừa là bàn về vấn đề của phụ nữ nhưng cũng từ vấn đề của phụ nữ và mượn lời phụ nữ để bàn về những vấn đề chung của xã hội.
        Đại Nam Đăng cổ tùng báo chỉ tồn tại khoảng 10 tháng trong năm 1907. Sau khi  Đại nam Đăng cổ tùng báo đóng cửa trong suốt 6 năm từ 1907 tới 1913 ở Việt Nam chỉ còn lại hai tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Nam Kì là tờ Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn.
        Năm 1913, Đông Dương tạp chí được xuất bản ra số đầu tiên ngày 15/5 tại Hà Nội. Người sáng lập và chủ nhiệm báo là Schneinder, người đã từng ở Việt Nam từ năm 1882 và đã xuất bản tờ Lục tỉnh tân văn và Đại nam đồng văn nhật báo . Vì vậy lúc đầu Đông Dương tạp chí được coi là một chi nhánh của Lục tỉnh tân văn ở Bắc và Trung Kỳ. Chủ bút báo là Nguyễn Văn Vĩnh với sự cộng tác của các tác giả Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu...
       Trong 2 năm đầu 1913-1914 Đông Dương tạp chí (ĐDTC) mang tính chất một tờ báo ngôn luận thông thường tổng hợp, đăng tải các bài về tin tức thời sự chính trị xã hội lẫn văn chương học thuật. Tháng 1-1915 báo Trung bắc tân văn (TBTV) xuất bản ở Hà Nội, chủ nhiệm báo vẫn là Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút với các cộng tác viên như của ĐDTC. Và để phục vụ chính sách động viên cho chiến tranh của Pháp, TBTV sẽ chuyên “nghị luận về những việc thời vụ”  còn ĐDTCí sẽ chuyển thành một tờ báo có tính chất văn học chuyên giới thiệu và dịch các tác phẩm văn học nước ngoài và các bài về khoa sư phạm. Cũng như ĐDTC, TBTV lúc đầu là một tờ tuần báo, đến năm 1916 thì 3 ngaỳ ra một số và đến năm 1919 khi Nguyễn  Văn Vĩnh mua lại tờ báo và nhà in từ Schneider thì báo ra hàng ngày.
Từ sau chiến tranh thế giới I đến I930
        Cũng từ sau chiến tranh thế giới I báo chí phát triển mạnh hơn do Pháp không giữ độc quyền báo chí như trước nữa. Nhiều người Việt Nam được phép xuất bản báo chí và đương nhiên là phải tuân theo pháp luật của chính quyền thực dân và phải chịu sự kiểm soát của chúng. Đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới I tới những năm đầu thập niên 30, báo tiếng Việt phát triển nhanh chóng cả về số lượng và nội dung. Năm 1922, cả nước chỉ mới có 19 tờ báo tiếng Việt thì đến năm 1925 đã có 25 tờ, năm 1927 có 36 tờ và năm 1929 lên tới 47 tờ. Các tờ báo tiêu biểu thời kì này là: Đông Dương tạp chí (1913-1918),Trung Bắc tân văn (1915-1945), Nam Phong (1917-1935), Nữ giới chung (1918), Thực nghiệp dân báo(1920-1933), Khai hoá nhật báo (1921-1927), Hữu thanh tạp chí (1921-1924), Đông Pháp thời báo(1923- 1928), An nam tạp chí (1926-1930), Thần chung (1929-1930), Trung lập báo (1924-1933), Tân dân báo (1924-1925) Pháp Việt nhất gia (1927), Tiếng dân (1927-1943), Hà thành ngọ báo (1927-1929), Báo Đông -Tây (1929-1932), Phụ nữ tân văn (1929-1935), Kì lân báo (1928-1929), Văn minh(1926-1931)...
Từ năm I930 đến I945
        Sang những năm 1930, báo chí Tiếng Việt có sự phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh khoảng 30 tờ báo và tạp chí có từ trước vẫn đang tiếp tục lưu hành thì có khoảng 180 tờ báo và tạp chí mới ra đời. So với trước đây số lượng các tờ báo xuất bản trong thời kì này tăng lên gấp đôi, đặc biệt bên cạnh báo chí hợp pháp phát hành công khai còn xuất hiện dòng báo bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam và dòng báo lưu hành trong các nhà tù của thực dân.
        Báo chí thời kì này phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và chính trị tư tưởng đương thời. Đó là bên cạnh trào lưu Âu hoá và lối sống tư sản trong các đô thị là tin tức về các hoạt động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng như cuộc thảo luậncủa Hải Triều và Thiếu Sơn về “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” [ Đời Mới-24/3-27/3/I933] ,  cuộc thảo luận của Hải Triều và Phan Khôi về “Duy vật và Duy tâm” [ Phụ nữ thời đàm- 8 và 29/I0/ I933]; cuộc thảo luận của Phan Khôi và Nguyễn Thị Chính  về “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan” [ Phụ nữ tân văn- 7 và I4/7 và  4/8/I932], cuộc tranh luận về “Phổ thông đầu phiếu” trên báo Công luận năm 1932 và các bài về quyền bầu cử của phụ nữ...
            Thắng lợi của Mặt trận dân chủ Đông Dương trong cuộc đấu tranh đòi tự do báo chí, Pháp đã phải thừa nhận hiệu lực của Luật tự do báo chí ban hành năm 1881 được áp dụng ở Đông Dương. Đó là bộ luật quy định báo chí phát hành chỉ cần báo trước 24 giờ. Chính thắng lợi này đã làm báo chí giai đoạn 1936-1939 phát triển mạnh mẽ,  nhiều tờ báo cách mạng được phát hành công khai. Theo Daniel Hemery, Sở An ninh Đông Dương ước tính vào tháng 11/1938, chỉ riêng Nam Kỳ có tới 18 tờ báo cộng sản, trốtkit, hoặc thân cộng. Số in của báo tiếng Pháp giảm chỉ còn 30.580 bản trong khi số in của báo tiếng Việt là 153.000 bản. Tính đến ngày 1/1/1939 trên toàn cõi Đông Dương số báo tiếng Việt và song ngữ Pháp Việt  tờ trong khi số báo tiếng Pháp chỉ còn 69 tờ.[3]
        Thời kì từ năm 1939, do điều kiện chiến tranh, kinh tế suy thoái, mực và giấy là hai nguồn vật liệu phục vụ cho ngành in ấn trở nên khan hiếm và đắt đỏ đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngành xuất bản, trong đó có báo chí. Nhiều tờ báo phải đóng cửa hoặc giảm trang, in trên giấy xấu. Mặc dù vậy, do nhu cầu tìm hiểu tình hình trong nước và quốc tế tăng, độc giả ngày càng nhiều, tình hình phát hành báo chí vẫn được duy trì với một số lượng khá lớn. Tất cả báo chí cách mạng phải phát hành bí mật song cũng không vì thế mà báo chí cách mạng không phát triển. Tiêu biểu cho báo chí cách mạng thời kì này là các tờ Tạp chí Cộng sản, Cờ giải ghóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Kèn gọi lính, Mê Linh, Phá ngục, Kháng địch, Cởi ách, Chiến đấu, Tiên phong, Dân tộc, Tiếng súng khởi nghĩa…
         Dòng báo chí công khai cũng bị phân hoá thành nhiều khuynh hướng: báo chí thân thực dân như các tờ: Đông Pháp (ĐP), Tin mới, Đàn bà (ĐB), Tân Việt Nam, Nỗ lực. Báo chí cấp tiến như các tờ Ngày nay, Thanh nghị, Tri tân... Ngoài ra còn có một số tờ báo của nhóm Trốtkít như tờ Văn mới, Tân thời...,các loại báo văn học, tôn giáo và các loại báo chuyên biệt khác như báo thể thao, báo kinh tế, báo trẻ em... Một đặc điểm đáng chú ý là hầu hết các báo xuất bản thời kì này đều có dành riêng một mục cho phụ nữ hoặc có các trang phụ nữ như Công luận, Đông Pháp, Tân thời tuần báo (TT), Dân hiệp (DH), Nam Kỳ tuần báo (NKTB)... Đặc biệt thời kì này còn hình thành cả một dòng báo phụ nữ.
       Năm 1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp, chính phủ Pháp do Reynaud cầm đầu nhanh chóng sụp đổ. Chính phủ mới do Thống chế Philippe Petain thành lập tuyên bố đầu hàng phát xít Đức. Một nhóm khác do tướng Charles de Gaulle lãnh đạo chạy sang Anh và thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp. Chính phủ bình dân của Pháp không còn tồn tại, Đảng Cộng sản bị giải tán, phải đi vào hoạt động bí mật. Việc nước Pháp bị Đức xâm chiếm ảnh hưởng mạnh mẽ đến những diễn biến chính trị tại Đông Dương. 
         ở Đông Dương, từ tháng 7/1939 chức vụ Toàn quyền Đông Dương cũng thay đổi từ một quan toàn quyền dân sự là Brevie chuyển sang cho một quan toàn quyền quân sự, tướng Catroux và sau đó là Đô đốc Jean Decoux. Pháp đã chuẩn bị cho tình trạng chiến tranh ở các nước thuộc địa. Hành động đầu tiên của chính quyền thuộc địa là ra sức đàn áp Đảng Cộng sản. Sắc lệnh ngày 28/9/1939 cấm ngặt tất cả hành vi tuyên truyền về Quốc tế III và các tổ chức có liên quan. Đảng Cộng sản, các đoàn thể và các nhóm liên quan đều bị giải tán. Thực dân Pháp đã quy định kiểm duyệt toàn bộ báo chí nước ngoài trong các khu vực thuộc địa của Pháp. Trong vòng 4 tháng cuối năm 1939, Pháp đã ký tới 10 Sắc lệnh và Nghị định về báo chí và liên quan đến báo chí. Giấy và mực in cũng được chính quyền quản lý chặt chẽ thông qua phòng kiểm duyệt Liên đoàn giấy. Năm 1943, Toàn quyền Đông Dương ra một nghị định mới về việc phát hành báo chí. Nghị định này quy định: khuôn khổ báo sẽ bị hạn chế để tiết kiệm giấy. Nếu báo xuất bản hàng ngày thì phải nghỉ ngày chủ nhật. Nếu phát hành ngày chủ nhật thì không được phát hành các ngày khác trong tuần, không được in báo trên giấy khổ 23 x 2000 cm2, nên dùng khổ báo không cần phải cắt giấy để tiết kiệm... [HP-1/5/1945]
         Ngay từ trước khi có sắc lệnh trên, một loạt tờ báo đã bị khám xét, bắt bớ và đóng cửa. Tờ Ngày mới bị đóng cửa ngày 26.8.1939, Dân chúng ngày 30/8/1939, Người mới ngày 5/9/1939, Thế giới ngày 13/9/1939, Đời nay ngày 29/9/1939. Trước tình hình đó Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo cách mạng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, ra chỉ thị cho những người làm báo và các tờ báo Đảng rút vào bí mật.
         Ngày 23/9/1940, Nhật vào Đông Dương đặt thêm một ách thống trị mới lên xã hội Việt Nam và từng bước ép Pháp phải nhường cho Nhật một số quyền lợi về kinh tế chính trị, quân sự. Đồng thời Nhật cũng ráo riết tuyên truyền chính sách Đại Đông á, văn hoá Nhật... nhằm gây ảnh hưởng trong dân chúng. Nhật cũng thành lập văn phòng kiểm duyệt báo chí, ra thông báo về việc kiểm duyệt toàn bộ báo chí, xuất bản phẩm và các phương tiện tuyên truyền kể cả áp phích quảng cáo và các kịch bản... Dựa vào Nhật, một số đảng phái mới ra đời như Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Phục quốc... và đều ra báo để gây ảnh hưởng. Tháng 5/1941 quyết nghị thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh)
       Phong trào Việt Minh phát triển, ở các vùng căn cứ địa cách mạng, báo chí cách mạng cũng được xuất bản góp phần tuyên truyền và vận động nhân dân như tờ: Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng... ở các địa phương cũng có báo cách mạng để vận động tuyên truyền nhân dân. Như báo Đuổi giặc nước của cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt Minh Thanh Hoá, báo Hiệp lực, cơ quan cổ động của Việt Minh tỉnh Bắc Ninh ...
[1]McHale.Shawn Frederick (1995), Printing, power, and the transformation of Vietnamese cultture, 1920-1945, dissertation, Cornell University 
[2]  Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, vĩnh Sính, (2005) Từ Đông sang Tây,NXB Đà Nẵng, tr90
[3]Cao Huy Thuần...Từ Đông sang tây.. tr88
Giới thiệu một bài báo đăng trên báo Đàn Bà mới năm I935.
Bạc bẽo thay nghề làm báo ở xứ này
 Tờ báo là một bó đuốc để tìm Chân Lý.
Người làm báo là kẻ cầm bó đuốc ấy, là kẻ thờ Chân lý một cách chánh đại quang minh, không sợ kẻ lớn quyền nhiều thế, bao giờ cũng muốn làm cho rõ trắng đen, dầu có phải gặp nguy hiểm cũng cam. Tóm lại người làm báo là kẻ có thể nói như Zola: " Tôi tố cáo đây nè!"
Tố cáo những kẻ lạm quyền.
Tố cáo những tội nhân của xã hội mà pháp luật chưa tìm ra được.
Tố cáo những vụ áp chế mà kẻ bị húng hiếp do ngắn cổ mà không kêu được tới các nhà cầm quyền. Nhà làm báo không để cho một việc gì còn được lẩn khuất trong só ( xó) tối.
Vì vậy mà ở các nước nghề làm báo là một cái quyền: quyền thứ tư trong nước. Tờ báo ở Âu Mỹ là một sức mạnh. Chính nhờ cái sức mạnh của báo giới đã bênh vực cho mình mà quan ba Dreyfus ở Pháp vốn bị xử oan, bị khép lầm vào tội phản quốc, sau được luật pháp xét xử lại, tuyên bố ông vô tội. Ta còn thấy cái sức mạnh của báo giới làm cho nội các của nước Pháp phải đổ nhào sau vụ án Dreyfus và chính trị nước Pháp xoay về phía tả. Ở bên Mỹ, Hearst, ông vua làm báo bị Nội các Tardieu trục xuất ra khỏi nước Pháp một cách vô lý, sau về nước cổ động dân Mỹ công kích nước Pháp dữ quá đến đỗi nghị định trục xuất ông Hearst phải hủy đi.
Nhưng nếu ở các nước nghề làm báo là một sức mạnh mà kẻ cầm quyền phải vì nể thì ở xứ Đông Dương này, ngựơc lại, nghề làm báo mới bạc bẽo làm sao!
Không những báo giới quốc âm đã bị khép vào một chế độ riêng về mặt chánh trị, đến báo giới viết bằng chữ Pháp cũng phải giảm thế lực trước những kẻ lớn quyền mạnh thế.
Vụ án Populaire đã tỏ rõ sự ấy. Đây chúng tôi không tường thuật vụ ấy vì luật pháp không cho thuật những vụ án phỉ báng. Chúng tôi chỉ tỏ ít cảm tưởng đối với bạn đồng nghiệp Bonvicini chẳng may đã đụng chạm tới ông vua tiền tỉnh Bạc Liêu là ông Hội đồng Trần Trinh Trạch
Sau khi Tòa án đại hình tuyên bố không có quyền xử vụ án ông Trần kiện báo Populaire, dầu ông này đã làm Hội đồng quản hạt, đã có chân trong Hội đồng tư vấn, có Bắc Đẩu Bội tinh, sau khi tòa đưa trả vụ này cho Tòa Trừng trị, thì chúng tôi chắc thế nào ông Bonivicini cũng bị án rồi.
Vì ở Tòa Trừng trị, điều luật thứ 35 trong Đạo luật năm 1881 không cho viện bằng cớ ra, sự tuyên phạt đã thành một lẽ dĩ nhiên đi rồi. Tòa chỉ cần xét xem bị cáo nhơn có phải vì công tâm mà viết bài báo phạm tới danh giá bên nguyên không? Thì các người làm chứng đều công nhận rằng ông Boncini vì công tâm mà chỉ trích ông Trần Trinh Trạch, rằng ông chủ bút báo Populaire là một người chân chánh.
Nhưng ông Biện lý Serrau khép tội trong vụ án này nói rằng: Dầu có vì công tâm mà chỉ trích bên nguyên ông Bonvicini cũng không được trắng án nào; sự công tâm chỉ là trường hợp được giảm đẳng ( circonstaince atte'nuante) mà thôi.
Thế nghĩa là ở tòa trừng trị, luật pháp đã sẵn sàng để phạt kẻ đã viết báo phạm tới danh giá người ta, dầu là một kẻ viết báo chân chánh, muốn tố cáo việc ám muội, hay một kẻ viết báo chuyên môn làm nghề "thầy hót" cũng để ngang hàng với nhau cả. Quan Biện lý và Quan chánh á trong vụ Populaire cũng chỉ làm đúng pháp luật mà thôi, chúng tôi biết vậy lắm. Nhưng đạo luật về tôi phỉ báng như vậy đối với nghề viết báo mới khắt khe làm sao!
Rồi đây, có một ngày kia, có một thằng điếm móc túi - nếu có muốn, cũng có thể đem một nhà báo ra trước pháp xin được bồi thường danh giá vì nhà báo đó đã đăng tin...nó ăn cắp.
Nghề làm báo như vậy thì còn gì đáng gọi là một quyền nữa?
Tờ báo là mảnh gương phản chiếu dư luận của quần chúng.
Quần chúng bị điều gì áp bức ; sự công phẫn bị đè nén trong lòng không dám lộ ra ngoài, nhưng có một ngày kia nó sẽ bung ra. Khi đó nó sẽ như một thùng thuốc đạn đã bị đè nén lâu rồi, khi nổ ra gây sự hại không phải ít. Rồi nó sẽ gây ra lắm việc đáng tiếc như việc ngày 6 Fe'vrier năm ngoái ở Pháp vậy.
Nay nếu pháp luật hay nhà cầm quyền không cho tờ báo chiếu ra ngoài ánh sáng sự công phẫn ấy thì có khác nào một việc thất sách, một việc thất sách rồi đây khó mà chữa sửa được. Trạng sư Gallet bênh vực cho ông Bonvicini, có tỏ cái nhiệm vụ quan trọng của nhà báo như vầy:
" Dư luận của công chúng mà báo giới làm tiêu biểu, là một sự mà ta không thể nhãng bỏ được, vì sự ấy làm ta tránh được nhiều việc tai biến. Báo giới báo trước cho ta biết những sự nguy hiểm khó tránh nó sắp xảy tới nơi.
Các ngài không thấy ở bên Pháp đó sao? Chẳng phải Báo giới đã kêu: "Phải coi chừng" mỗi khi mà dư luận công chúng bị đè nén sắp sửa bung ra bằng sự biểu tình ghê gớm.
Người ta thấy rằng nhờ Báo giới mà nước Pháp đã tra xét ra được bao nhiêu vụ ám muội nó đem nước Pháp chỉ còn hai bước thì đến cuộc cách mạng. Nếu người ta bịt miệng Báo giới thì sẽ ra sao?"
Nhưng than ôi ! Những lời lẽ hùng hồn của Trạng sư Gallet không đủ làm cho tòa lưu tâm đến cái nghề làm báo ở xứ này, một cái nghề có lợi ích cho chính phủ, cho trật tự trong nước, đáng hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Trạng sư biết rằng quan tòa không thể tha cho ông Bonvicini vì luật pháp đã bắt buộc thế, nên ông Gallet xin tòa xử hết sức nhẹ cho bị cáo nhơn.
Vậy mà sau khi nghị án có tới một giờ đồng hồ, tòa tuyên phạt ông chủ nhiệm báo Populaire 1000 quan tiền, và bồi thường danh giá cho bên nguyên 3000 đồng.
Ba ngàn đồng phạt bồi thường danh giá, 1000 quan tiền phạt! những người đi xem xử vụ ấy đều tỏ ý ngạc nhiên vì có lẽ từ trước tới giờ họ chưa thấy một nhà báo nào bị xử nặng đến thế.
Nhưng thôi, luật pháp đã tuyên án, không còn có thể bình phẩm được nữa...
(Bài đăng ở báo Đàn bà mới năm 1935)
Mười quốc gia có dân số học thức nhất thế giới
 Thủ đô Ottawa của Canada

 (Theo 24/7 Wall Street)

 Tổ chức Phát Triển và Hỗ Tương Kinh Tế (OECD) vừa công bố một bản khảo cứu cho biết là trong vòng 50 năm qua, số sinh viên đại học ở các quốc gia phát triển gia tăng gần 200 phần trăm. Bản công bố này cũng liệt kê danh sách 10 quốc gia trên thế giới có cư dân học thức nhất trên thế giới.
- Đứng hàng thứ 10 là Phần Lan với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 37 phần trăm. Sản lượng quốc gia (GDP) tính theo đầu người là 36,585 Mỹ kim.
- Úc Đại Lợi là quốc gia có cư dân học thức đứng hàng thứ 9 trên thế giới, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học cũng 37 phần trăm. Sản lượng GDP tính theo đầu người là 40, 719 Mỹ kim
- Anh là quốc gia đứng hàng thứ 8 về số dân học thức, với tỷ lệ cư dân có bằng cấp cũng ở mức 37 phần trăm, và sản lượng GDP tính theo đầu người là 35, 504 Mỹ kim.
- Na Uy là quốc gia đứng hàng thứ 7 trong bảng sắp hạng, với sản lượng GDP ở mức 56,617 Mỹ kim một đầu người.
- Nam Hàn là quốc gia đứng hàng thứ 6, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 39 phần trăm, trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 29,101 Mỹ kim.
- Quốc gia đứng hàng thứ 5 là Tân Tây Lan, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 40 phần trăm. Sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 29,871 Mỹ kim.
- Hoa Kỳ là quốc gia đứng hàng thứ tư, với số dân có bằng cấp đại học ở mức 41 phần trăm. Trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người là 46,588 Mỹ kim.
- Quốc gia đứng hàng thứ ba trong bảng danh sách là Nhật, với 44 phần trăm dần số có bằng cấp đại học. Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 33,751 Mỹ kim.
- Do Thái là quốc gia đứng hàng thứ nhì trong bảng danh sách với 45 phần trăm dân chúng có bằng cấp đại học, trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 28,596 Mỹ kim
- Canada là quốc gia đứng hàng đầu về trình độ trí thức, với 50 phần trăm dân số có bằng cấp đại học. Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 39, 070 dollars
\t�-$� �DC�c��L��M 8�D<�

    Còn nước VN (XHCN) có rất nhiều tiến sỉ, thạc sỉ, phó giáo sư nhưng sao không thấy sắp hạng top ten ? OMG !!!!.

Monday, February 13, 2012

Sự nghi ngờ của dân chủ ,



Phạm Hồng Sơn
Nếu có thể tóm gọn sự khác nhau giữa độc tài và dân chủ thì có thể nói độc tài luôn tạo ra và nuôi dưỡng sự lạc quan vô tận cho dân chúng còn dân chủ thì khuyến khích sự nghi ngờ về mọi thứ, nhất là về những người có quyền lực, nắm ảnh hưởng dư luận. Kết quả những cuộc thăm dò gần đây của các tổ chức có uy tín cũng cho ra chỉ số lạc quan vào tương lai của người dân ở một số quốc gia độc tài cao hơn rất nhiều so với ở các quốc gia dân chủ, trong khi chất lượng sống nói chung ở các quốc gia độc tài đó lại đang đi xuống và thấp hơn hoặc thấp hơn rất nhiều so với ở các quốc gia dân chủ.
Các nguyên tắc tam quyền phân lập, kiểm soát và cân bằng (checks and balances), tranh cử tự do, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội hoặc các nhiệm kỳ có giới hạn của các lãnh đạo quốc gia, v.v. trong chế độ dân chủ đều có nền tảng dựa trên mối nghi ngờ quyền lực, nghi ngờ mặt trái của con người. Nếu nghi ngờ đã đưa con người đến với khoa học thì chế độ dân chủ, có thể nói, là một bước tiến vĩ đại của con người về khoa học nhân văn – đặt hẳn nghi ngờ và tạo ra các thiết chế thường trực nhằm thẳng vào những người có quyền, có ảnh hưởng tới xã hội bất kể công trạng, tài năng hay đức độ. Tinh thần dân chủ và chế độ dân chủ không bao giờ chấp nhận và không để cho bất kỳ sự ảnh hưởng, lãnh đạo, hướng đạo nào không phải trải qua sự soi xét, thẩm định của các nghi ngờ, của các thiết chế ước chế quyền lực, hạn chế sai lầm và ngăn chặn sự áp đặt, độc tôn. Đó chính là sự nghi ngờ của dân chủ. Sự nghi ngờ của dân chủ không chỉ giúp phát hiện, loại bỏ cái Ác mà còn ngăn ngừa sự suy đồi của cái Thiện. Thiếu sự nghi ngờ của dân chủ chắc chắn dân chủ sẽ thoái hóa, cái Ác sẽ lên ngôi hoặc vẫn chỉ là độc tài, phi dân chủ. Cuộc sống cũng cho thấy những sai lầm, vấp ngã, hụt hẫng tệ hại nhất, đau xót nhất của con người thường bắt nguồn từ sự tin tưởng tuyệt đối – sự lạc quan vô tận – vắng bóng nghi ngờ.
Nhìn cụ thể vào lịch sử Việt Nam, chúng ta có thể thấy thảm trạng của đất nước hiện nay cũng một phần, có thể nói là lớn, do hệ quả xã hội Việt Nam chưa có hoặc có rất ít sự nghi ngờ của dân chủ. Trong thời kỳ lịch sử cận đại, đặc biệt giai đoạn 1930-1945, có rất nhiều người tài năng và đức hạnh đã nhiệt tâm ủng hộ và trao hết niềm tin, không một nghi ngờ, cho Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và các lãnh tụ của nó, chỉ vì đây là một tổ chức chính trị có sức hấp dẫn mạnh hơn so với các đảng phái, tổ chức khác cùng trên một con đường tranh đấu giành lại độc lập, tự do, công bằng cho dân tộc. Nhưng lịch sử tiếp sau đã cho thấy một tổ chức rất kỷ luật và bài bản, với nhiều con người rất đáng khâm phục, có sức thu hút và huy động quần chúng hết sức to lớn, đã tạo nên những chiến thắng lẫy lừng trước các lực lượng nước ngoài hoặc người Việt khác chính kiến, nhưng với động cơ, quan điểm chính trị phản tiến bộ – cụ thể là độc tôn, độc tài toàn trị, phi dân chủ – lại đưa dân tộc và đất nước lún sâu trở lại cú vòng lịch sử:  nhân dân cứ trao hết niềm tin, dốc hết của cải, xương máu cho một lãnh tụ, một tổ chức để rồi lại tiếp tục cuộc đời nô tì cho các vua chúa, lãnh tụ độc tài nội địa.
Chắc chắn không có người Việt nào thực tâm yêu nước hiện nay lại muốn cú vòng lịch sử hổ nhục, đau đớn như thế lại diễn ra một lần nữa. Nhưng việc tránh cú vòng lịch sử đó không đơn giản bởi cuộc đấu tranh hiện nay giữa nhân dân và lực lượng cầm quyền phản dân chủ về bản chất vẫn là cuộc đấu giằng co giữa hai lực lượng Thiện-Ác. Trong khi cái Thiện thường hồn nhiên và bị động thì cái Ác lại luôn âm mưu và chủ động, nhất là khi cái Ác đã bị lộ diện. Cái Ác không chỉ luôn cảnh giác, nhạy bén trong việc phát hiện, loại bỏ những gì gây nguy hiểm cho bản chất Ác mà chúng còn luôn tìm cách biến hóa, biến hình thành Thiện. Lịch sử của ĐCSVN cũng cho thấy Đảng không chỉ thanh trừng, loại bỏ thẳng tay những nhân tố không có lợi cho sự độc quyền quyền lực của Đảng mà Đảng còn dùng đủ cách khiến dư luận ngộ nhận và đồng nhất Đảng với dân chủ, tiến bộ, cải cách, như đổi tên, tự giải tán, tự lập ra các đảng phái khác hoặc “đổi mới”. Những đảng viên công thần hàng đầu của ĐCSVN như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Trần Xuân Bách đều đã bị Đảng gạt bỏ không thương tiếc, không phải vì họ không còn yêu mến hay không trung thành với Đảng mà chỉ vì họ đã có những khát khao hết sức khiêm tốn, nhưng rất cơ bản cho dân chủ, như có một tờ báo tư nhân giống thời thực dân Pháp hoặc chỉ muốn có tranh biện tự do về chính trị. Những đóng góp, hy sinh hết mình cho Đảng, cho “Bác” của những người như Nguyễn Thị Năm hay Vũ Đình Huỳnh cũng không thể giúp họ tránh được lao tù hay phải thí mạng cho những mưu tính về quyền lực độc tôn của Đảng. Những Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ là những tổ chức dân chủ trá hình của Đảng.
Vậy điều gì để đảm bảo ĐCSVN không tiếp tục biến hình dân chủ trong thời đại mà dân chủ đang trở thành khát khao của mọi dân tộc? Ai trong xã hội hiện nay có uy tín, công trạng và sự lẫm liệt đối với Đảng hơn những người vừa kể? Ai có thể đảm bảo rằng giới lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay ngây thơ, yếu kém hơn những bậc tiền bối của họ trong việc duy trì quyền lực độc đoán? Hay giới lãnh đạo hiện nay đạo đức, ít ràng buộc với quyền lực hơn những vị tiền bối tới mức có thể “động lòng” chấp nhận những cải cách dân chủ từ những người tỏ ra “trung thành” với Đảng? Và điều gì đảm bảo rằng những người bề ngoài vẫn tỏ ra “trung thành” với ĐCSVN nhưng lại có tư tưởng dân chủ thực sự ở bên trong? Tất cả đều là những câu hỏi không dễ trả lời. Nhưng chính việc không thể có một câu trả lời dứt khoát cho những câu hỏi này lại càng cho thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của sự nghi ngờ của dân chủ. Tuy nhiên các thiết chế dân chủ là những thứ không thể có được ngay. Cái có thể có ngay chính là ý thức thận trọng, nghi vấn, nghi ngờ có tính dân chủ đối với tất cả những người cầm quyền và tất cả những nhân vật có ảnh hưởng tới công luận.
Cho dù sự nghi ngờ của dân chủ có thể gây quan ngại hoặc ảnh hưởng tới sự gắn kết, đoàn kết vẫn còn mỏng manh giữa những người dám đứng lên chống lại cái Ác. Nhưng nếu một gắn kết, đoàn kết không chịu nổi hay cố lảng tránh những phê bình của dư luận thì chắc chắn nền tảng của nó có vấn đề. Có thể sự nghi ngờ của dân chủ cũng sẽ ảnh hưởng tới những trân trọng đang cần để khuyến khích thêm sự dấn thân cho xã hội. Nhưng sự trân trọng sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi dám đối mặt và vẫn đứng vững trước mọi thử thách. Tất nhiên, khó có một dân tộc nào đầy chiến tích lại để cho cái Ác cứ ngạo ngược giày xéo mãi. Nhưng chỉ có sự nghi ngờ của dân chủ mới có thể giúp cho dân tộc đó không bị quàng trở lại chiếc vòng nô lệ.
© 2012 pro&contra

Thẩm quyền, quyền lực và Tiên Lãng ;

Phạm Hồng Sơn
Thẩm quyền (authority) và quyền lực (power) là hai khái niệm hoàn toàn riêng biệt và khá phức tạp trong khoa học chính trị, pháp lý. Nhưng chúng lại thuộc những khái niệm có tính nền tảng cho dân chủ. Có nhiều cách khác nhau để định nghĩa thế nào là thẩm quyền hay quyền lực, trong khuôn khổ của bài viết nhỏ này chúng tôi xin trích dẫn định nghĩa trong giáo trình Foundations of Democracy: justice, authority, privacy (Các nền tảng của Dân chủ: công lý, thẩm quyền, sự riêng tư) của Center for Civic Education (Trung tâm Giáo dục Công dân) tại Hoa Kỳ. Quyền lực là khả năng kiểm soát hay điều khiển được vật hay người. Còn thẩm quyền là quyền lực được gắn kết với một quyền (sự cho phép) được sử dụng quyền lực đó. Liên quan đến thẩm quyền là các khái niệm quan trọng khác như nguồn gốc của thẩm quyền, nền tảng của thẩm quyền hay các sự kiện lịch sử tác động tới nhận thức về thẩm quyền. Để dễ hiểu hơn chúng ta có thể thấy một kẻ bất hảo dùng súng để cưỡng đoạt tài sản của người khác thì kẻ đó có quyền lực nhưng hoàn toàn không có thẩm quyền làm việc đó. Hay việc một cảnh sát được trang bị các dụng cụ trấn áp như dùi cui, súng ngắn hay còng số 8 thì viên cảnh sát đó có quyền lực mạnh nhưng chỉ có thẩm quyền bắt giữ người khác theo đúng những gì pháp luật qui định, như bắt người phải có sự phê chuẩn trước của viện kiểm sát. Hoặc một giáo viên có thẩm quyền giữ trật tự trong lớp học nhưng không có thẩm quyền cấm học sinh bày tỏ quan điểm (một cách lịch thiệp) vì hiến pháp đã qui định mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận và cách bày tỏ lại không xâm phạm chuẩn mực đạo đức. Hiểu một cách khác và đơn giản hơn thì thẩm quyền là việc pháp luật cho phép hay qui định bổn phận (trách nhiệm) cho một cá nhân, một tổ chức được (hay phải) làm một việc gì đó. Còn quyền lực là khả năng tạo ra hoặc huy động được sức mạnh vật lý hay tinh thần. Như vậy một thẩm quyền luôn phải được kèm theo một mức độ quyền lực để làm tăng tính thực thi cho thẩm quyền trước những cản trở có thể. Còn một cá nhân hay một tổ chức có thể có quyền lực mạnh nhưng không hẳn đã có thẩm quyền để làm một việc gì đó. Để dễ hình dung hơn nữa chúng ta có thể lấy luôn vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng vừa qua làm ví dụ. Vụ đó đã cho thấy rõ việc san phẳng ngôi nhà của anh Vươn là việc không hề khó đối với những quyền lực như người lái máy ủi và những người có chức quyền từ cấp xã, huyện cho đến trung ương. Nhưng tất cả những người có quyền lực đó đều không có thẩm quyền để làm tổn hại, dù chỉ là sướt sát, ngôi nhà đó khi những người chống trả đã rời khỏi ngôi nhà. Đây cũng là vấn đề đang được dư luận rất chú ý với những đòi hỏi phải làm rõ và xử lý hình sự những người đã huy động quyền lực phá nhà anh Vươn.
Một điều nguy hiểm hơn nữa trong vụ Tiên Lãng là, đối chiếu với những khái niệm thẩm quyền và quyền lực vừa trình bày, đang tiếp tục có sự đánh tráo hay cố tình nhập nhèm khái niệm thẩm quyền và quyền lực trong giải quyết vụ việc. Về nguyên tắc, trách nhiệm xử lý một tranh chấp, xung đột đã được khởi tố hình sự (đã có dấu hiệu vi phạm bộ luật hình sự) thì thẩm quyền xử lý phải hoàn toàn thuộc các cơ quan của hệ thống tư pháp (judiciary) – bao gồm Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát các cấp, Cơ quan Điều tra và Tòa án Hình sự các cấp. Nhưng đến tận hôm nay qua các phương tiện truyền thông chính thống thì giải quyết vụ việc Tiên Lãng dường như lại đang dựa hoàn toàn vào chỉ đạo của Thủ tướng (thuộc cơ quan hành pháp) và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN- vẫn chỉ là một đảng chính trị dù là độc nhất). Các báo chí, phương tiện truyền thông chính thống đều tỏ ra rất săn đón hay hoan hỉ trích dẫn những phát biểu, nhận định của các cựu lãnh đạo cao cấp của ĐCSVN, đưa tin đậm về cuộc họp dự kiến của Thủ tướng về vụ Tiên Lãng, thậm chí nhiều đảng viên cộng sản kỳ cựu còn công khai gửi gắm, kỳ vọng việc “giải quyết tận gốc vụ Tiên Lãng” hoàn toàn cho ông Thủ tướng. VTV1 đã dành riêng một phần trong chương trình thời sự 19h ngày 07/02/2012 để đưa tin cuộc họp báo của tổ chức địa phương của ĐCSVN ở Hải Phòng về vụ Tiên Lãng. Đúng là tất cả những nhân vật, tổ chức vừa nêu đều là những người, những tổ chức có sức hấp dẫn lớn đối với dư luận hoặc là những người, những tổ chức có quyền hay quyền lực rất mạnh nhưng họ hoàn hoàn không có thẩm quyền để phân định đúng sai trong vụ Tiên Lãng. Điều 10 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự qui định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ…” Thế nhưng, nếu chỉ nhìn vào dư luận từ khi tiếng súng nổ ra ở Tiên Lãng đến giờ, tất cả những cá nhân, những cơ quan có thẩm quyền này đều như không hề tồn tại hoặc nếu có thì lại chỉ thể hiện như những chức năng cấp dưới của ông Thủ tướng.
Rất có thể những người có quyền lực hiện nay trong hệ thống chính trị của Việt Nam đang toan tính cách xử lý vụ Tiên Lãng theo chiều hướng vỗ về dư luận – đã bùng và sôi lên từ hơn một tháng qua. Nhưng nếu vấn đề thẩm quyền (authority) và quyền lực (power) không được làm rõ hay không được làm rõ thêm thì cái được cho xã hội sau vụ việc lịch sử này vẫn chả có gì là bền vững hoặc nếu có thì cũng không đáng là bao.
© 2012 pro&contra

Bất cập Luật Đất đai và cơ hội cho tham nhũng

(Dân Việt) - Những tranh chấp dữ dội về đất đai, những vụ thu hồi đất nảy lửa như ở Tiên Lãng, nhưng yếu kém của nền nông nghiệp... đều có nguồn gốc sâu xa từ bất cập của Luật Đất đai.

Những tồn tại này đã được ông Nguyễn Minh Nhị - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang phân tích, mổ xẻ trong một bài viết gửi cho Báo NTNN.
Rối rắm, khó hiểu
Khi làm phó chủ tịch tỉnh phụ trách “tam nông”, tôi có dự hội nghị đóng góp Luật Đất đai 1993, và tiếp theo, khi làm chủ tịch UBND tỉnh thì thực hiện Luật Đất đai 2003. Nói vậy để thấy rõ 2 việc: Các đại biểu đóng góp sửa luật, khi còn dự thảo không được tiếp thu nên những vấn đề cốt lõi, các từ ngữ, khái niệm và cách diễn đạt vẫn giữ gần như nguyên.
Theo ông Nhị, các quy định về về đất đai hiện nay quá rắc rối nên người dân khó hiểu.
Từ đó dẫn đến việc thứ hai là thực hiện luật vô cùng khó khăn và phức tạp – hiểu và làm sai là khó tránh khỏi và “vận dụng” làm bậy cũng rất dễ dàng.
Cái cốt lõi của vấn đề là ở chỗ: Quyền làm chủ trực tiếp của nông dân (người dân) thì ít và mơ hồ, trong khi nhà nước (các cấp chính quyền) thì quyền hạn mênh mông, chồng chéo lên nhau. Cả 4 cấp và 4 Bộ TNMT, NNPTNT, KHĐT, Tài chính – Vật giá (cũ) đều có quyền: Quyền sở hữu, quyền đại diện và nhất là toàn quyền sử dụng – định đoạt. Đã có đến 700 văn bản dưới luật và hướng dẫn thi hành mà đến nay vẫn còn chưa ổn thì đủ thấy cái rắc rối này như “ma trận”.
Trước khi viết bài này, tôi đọc lại Luật Đất đai 2003 và các văn bản dưới luật của Chính phủ và Bộ TNMT. Thật tình là quá rối rắm, hiểu không hết nổi. Cốt lõi của cái khó là nói sao để tránh cái “quyền sở hữu” của người dân nên mới có cấu trúc văn bản phức tạp mà không người nông dân nào hiểu hết khi đọc các văn bản ấy.
Quyền sử dụng lâu dài, về thực chất như quyền thuê đất 20 năm mà thôi. Nông dân có công với cách mạng mà chỉ được thuê 20 năm, trong khi các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài thì 50 năm, vậy có công bằng không?
Ngay như Điều 105 và các điểm b, c, d của Điều 114 quy định các quyền của đối tượng sử dụng đất, vì tránh“sở hữu” nên viết rất dài, nhưng thiếu và khó hiểu. Đất đai nên đa sở hữu và do vậy mới cần có luật để điều chỉnh các mối quan hệ sở hữu ấy. Cái cốt lõi của Luật Đất đai cần sửa có lẽ là chỗ đó, vừa hợp lòng dân vừa phù hợp với hội nhập quốc tế.
Cơ hội cho tham nhũng
Trong thực tế, tôi từng chủ trì giải quyết các tranh chấp đất đai, nhiều vụ thành nhưng không phải là ai cũng thỏa mãn. Nhiều vụ gay gắt xử mãi không xong, có vụ xử bên nào thắng cũng là đúng... Đặc biệt, có vụ tranh chấp nhà đất ở huyện Tân Châu năm 1968 giữa vợ 1 thiếu tá Sài Gòn - bên nguyên, do tòa án chế độ cũ xử, thì bên bị là gia đình có công với cách mạng thắng vì có “quyền lưu cư thâm niên”. Tòa của ta xử ngược lại, họ thua mới đau!
Luật Đất đai quy định thời gian (20 năm) và cả 4 cấp chính quyền đều có quyền về đất như hiện nay là kẽ hở cho tham nhũng đầm đìa.
Nói thế để thấy luật của ta như một rừng chữ, nhưng trong đó có quá nhiều đường quanh, nẻo tắt; người ngay vận dụng là quá khó khăn, kẻ cơ hội, tham nhũng thì tha hồ kiếm chác.
Điển hình như chính quyền huyện Tiên Lãng nói: Thu hồi thì cứ thu hồi, còn giao lại cho ai thì chưa tính, đó là quyền của nhà nước. Mồ hôi, công sức, tiền của của người dân mà nói tưng tửng như vậy thì chỉ có trời mới hiểu. Dân không hiểu thì mới làm liều như trường hợp Đoàn Văn Vươn!
Năm 2013 là hết hạn 20 năm có “quyền sử dụng đất” của đại đa số nông dân, rồi vấn đề gì sẽ xảy ra nếu không sửa cái “thời hạn” và cả “hạn điền”? Nhân đây xin được nói thêm về hạn điền và thời hạn “sử dụng đất”. Hạn điền 3ha là cấp đất không thu tiền, còn chứng nhận việc sang nhượng, mua sắm mà cũng hạn điền là không lên sản xuất lớn, không cạnh tranh.
Đặt vấn đề sửa Hiến pháp, sửa Luật Đất đai (và các luật quan trọng khác có liên quan tới quyền dân chủ tự do của người dân) thiết nghĩ Trung ương đã rất sáng suốt đặt vấn đề giải quyết trong cái tổng thể “cải cách thể chế” và phân công lãnh đạo cao cấp chủ trì.
-------------------
Kỳ 4: Phải hài hoà lợi ích
Nguyễn Minh Nhị

Luật đất đai: Lắm kẽ hở nên nhiều người lợi dụng

(Dân Việt) - “Luật Đất đai đang bộc lộ ngày càng rõ nhiều kẽ hở khiến cho những người vận dụng nó được nắm cái quyền quá lớn” - nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão nhấn mạnh.

Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão
Vận dụng sai Luật Đất đai
Theo Luật Đất đai, liệu có thể hiểu rằng đến năm 2013 hơn 10 triệu hộ nông dân đang được giao đất với thời hạn 20 năm sẽ bị thu hồi đất và giao lại cho người khác như trường hợp ở Tiên Lãng, thưa ông?
- Khi những người làm luật vào cuộc và thông qua Luật Đất đai năm 2003 tại Quốc hội thì đều với tinh thần là giao đất lâu dài cho người nông dân, để họ yên tâm sản xuất, đầu tư mang lại hiệu quả lớn cho họ và cho đất nước. Nhưng khi viết vào văn bản luật do không chặt chẽ đã gây ra hai cách hiểu.
Nếu hiểu theo đúng tinh thần các buổi thảo luận thì mọi trường hợp đều có thể xem xét lại. Nếu ai có yêu cầu, nhu cầu, sử dụng đất đúng pháp luật thì được xem xét và tiếp tục làm các thủ tục hành chính để được giao đất. Theo tôi, nếu hiểu theo tinh thần ấy thì là vì dân, bảo vệ nhân dân, và hiểu luật khi thông qua như vậy là hợp lý và tốt cho dân.
Nhưng những người hiểu máy móc thì họ sẽ bắt người dân phải làm các thủ tục phiền hà, gây khó dễ cho dân. Cách viết luật không chặt chẽ, rồi sau đó cũng không có giải thích luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cho nên đó là những hạn chế của Luật Đất đai cho dù đã được sửa tới 4 lần. Đó cũng là kẽ hở để lãnh đạo huyện Tiên Lãng làm sai luật, vận dụng sai và ép người dân.
Xin phép trở lại lịch sử của vấn đề, tại sao trước năm 1980, đất đai thuộc đa sở hữu, nhưng đến Hiến pháp 1980 lại quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Tại sao lại có sự thay đổi như vậy?
- Khi đó, chúng ta đã tham khảo kinh nghiệm của Liên Xô và các nước khác nên đưa vào Hiến pháp như vậy. Đến Hiến pháp 1992, mặc dù thảo luận nhiều và thấy đó là vấn đề phức tạp, nhưng vẫn chưa vượt được xu hướng thời kỳ những năm 80.
Nông dân mong muốn được giao đất lâu dài để yên tâm sản xuất, đầu tư.
Ở đây, chúng ta có phần phê phán cơ quan nhà nước, nhưng cũng cần có sự chia sẻ. Đây là phần trách nhiệm cao hơn công tác quản lý nhà nước. Vì Luật Đất đai do Quốc hội thông qua, một mặt Quốc hội phải chịu trách nhiệm, nhưng nói gì thì nói vẫn phải đảm bảo sự chỉ đạo của Đảng. Do vậy, Đảng cũng cần nghiên cứu, xem xét lại, để tới đây sửa đổi Hiến pháp thì nên sửa như thế nào.
Đến Hiến pháp 1992, mặc dù đã quy định giao đất lâu dài cho người dân, tuy nhiên, Luật Đất đai năm 1993 không những không cụ thể hóa được tinh thần này, mà lại đặt ra thời hạn giao đất 20 năm. Ông lý giải như thế nào về điều này?
- Thời điểm sửa đổi Hiến pháp 1992 là thời điểm sôi sục đổi mới, không khí đổi mới của Đại hội VI vẫn đang hừng hực. Thành ra khi đó tranh luận nhiều nên Điều 17, Điều 18 Luật Đất đai (quy định về quyền sử dụng đất - PV) phải thông qua rất nhiều lần. Lần trước đã thông qua có mở hơn, nhưng lần sau lại thông qua vẫn giống tinh thần Hiến pháp 1980.
Nhưng đến lần sửa đổi Luật Đất đai năm 2003, vì xa tinh thần sôi động của đổi mới nên còn khép lại nhiều hơn...
Năm 2003, khi tổng kết 10 năm thi hành Luật Đất đai, có 2 luồng ý kiến băn khoăn, một là thời hạn 20 năm quá dài, trong khi một luồng ý kiến khác lại cho rằng như vậy vẫn ngắn. Trong khi các đại biểu Quốc hội lại vẫn ủng hộ mức 20 năm? Liệu có phải khi ấy họ đã tính đến chuyện sau 20 năm sẽ chia lại ruộng đất?
- Tôi cho rằng đó là sự bảo thủ của Quốc hội, trách nhiệm của Quốc hội. Còn Chính phủ lúc đó có ý kiến đề nghị giao đất trong 30 năm hoặc lâu hơn, cho thấy nhận thức tiên tiến hơn. Chúng ta phải thừa nhận Chính phủ đã sát hơn với cuộc sống.
Nhận thức tốt, kết quả mới tốt
Từ vụ việc ở Tiên Lãng đang đặt ra vấn đề rất lớn, đó là sở hữu đất đai. Quan điểm của ông về vấn đề này?
- Tôi cho rằng nên cho phép đa sở hữu về đất đai, như thế mới phù hợp và gần với cuộc sống. Như vậy mới có Luật Đất đai hoàn thiện hơn, cùng với đó sự quản lý nhà nước sẽ tốt hơn. Như hiện nay là chưa hoàn thiện, và quản lý nhà nước từ T.Ư đến địa phương cũng sẽ rất khó. Do vậy, cũng nên chia sẻ với cơ quan hành pháp. Luật đã có khiếm khuyết thì nay lại vận dụng sai, đó là điều không chấp nhận được.
Cho dù có quy định thời hạn thì tinh thần cũng phải là lâu dài mãi mãi, để đến hết đời cha, đời con, người ta vẫn có thể tiếp tục sản xuất được. Đấy chính là trách nhiệm của cơ quan lập pháp.
Chẳng hạn như quyền sử dụng đất đai. Quy định đất đai là sở hữu toàn dân, nhưng trong Luật Đất đai thì ở khoản 4, Điều 4 quy định, người ta có 5 quyền về chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế... Nếu như vậy có nghĩa là Luật Đất đai công nhận có sở hữu cá nhân, vì phải là đất của mình thì mình mới có quyền chứ. Những nhận thức đó cho thấy chưa có sự thống nhất giữa Hiến pháp và luật. Vì vậy, nhiều ý kiến mới nói Luật Đất đai là “vi hiến”.
Theo nhận định của ông, với lần sửa đổi Hiến pháp này, nhận thức có gì đổi mới hơn, mạnh hơn để thay đổi vấn đề được cho là cốt lõi của sở hữu đất đai trong Hiến pháp?
- Vấn đề đất đai là vấn đề rất khó, quan trọng. Nếu xử lý không trách nhiệm, khách quan đầy đủ thì có thể nghiêng bên này, bên kia. Nghiêng bên này cũng nguy hiểm, bên kia cũng nguy hiểm. Muốn vậy, chúng ta phải dân chủ với dân. Vấn đề đất đai phải trưng cầu ý dân, đưa ra những phương án cụ thể để dân được đóng góp rõ ràng. Nếu chúng ta đi chung chung thì rất khó trả lời. Tôi ủng hộ trưng cầu ý dân và sửa đổi trên cơ sở kết luận ý dân. Lòng dân là trên hết. Nếu chúng ta không làm được như vậy thì tôi tin lần này chưa chắc chúng ta đã sửa được một cách tốt đẹp. Phải có cách làm tốt, nhận thức tốt thì kết quả mới tốt được.
Từ Hiến pháp đến Luật Đất đai nhận thức không nhất quán nên nhiều hậu quả: Trong khi Nhà nước nghèo khó, một số người cũng nghèo khó đi, thiệt thòi hơn thì lại có một số người rất lợi. Trong xu hướng đất đai ngày càng thu hẹp lại thì chúng ta cần phải chấn chỉnh, sửa lại ngay từ gốc.
Xin hỏi ông một câu hỏi cuối, hiện nay trên thế giới còn quốc gia nào quy định hình thức sở hữu đất đai như Việt Nam không?
- Tôi biết Trung Quốc vẫn ghi đất đai là sở hữu nhà nước, nhưng cách quản lý họ khác. Họ không cho Luật Đất đai có 5 quyền như Việt Nam. Họ nhất quán từ Hiến pháp đến Luật Đất đai. Thà chặt hẳn như vậy, không thì phải cởi mở để thông thoáng.
Trung Quốc họ quản lý đất đai tốt hơn chúng ta nhiều. Khi cần xây dựng khu công nghiệp, hay mở đường thì cách thu hồi đất của họ cũng khác. Họ thu hồi là thu hồi ngay và trả quyền sống cho người dân xứng đáng như bố trí chỗ ở tại những khu cao tầng, khu chung cư. Trả lại đúng diện tích đó hoặc hơn. Chúng ta không làm được như vậy, và không nhận thức được như vậy.
Xin cảm ơn ông!