Monday, April 7, 2025

TIỀN ĐỒN BIÊN PHÒNG BU PRANG - ĐỨC LẬP - TIỂU KHU QUẢNG ĐỨC -. NHỮNG TRẬN CHIẾN QUYẾT LIỆT NAM CAO NGUYÊN ĐAK LAK .

31 Tháng Mười Hai 20214:49 CH(Xem: 3179)
Trận chiến Bu Prang, trận tấn công lớn nhất của cộng quân trên chiến trường Cao nguyên vào 3 tháng cuối năm 1969
Cuối tháng 10/ 1969, CS đã công khai việc đóng quân trên phần đất Cam Bốt khi tung lực lượng từ bên kia biên giới tấn công vào nhiều tiền cứ biên phòng của liên quân Việt-Mỹ ở phía Tây Quảng Đức, cụm tiền cứ bị cộng quân tấn công dữ dội nhất là Bu Prang, nằm ở phía Tây Nam Ban Mê Thuột, cách thị xã này 65 Km, và cách biên giới Việt-Căm Bốt 8 Km. Đây là trận tấn công quy mô nhất của cộng quân trên chiến trường Cao nguyên vào ba tháng cuối của năm 1969, mức độ khốc liệt của trận chiến đã thu hút dư luận quốc tế về sự leo thang chiến tranh của CS. Dựa theo các bản tin chiến sự do Khối Thông tin-Giao tế Dân sự thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL/VNCH phổ biến trong các cuộc họp báo hàng ngày, diễn tiến về trận chiến ở Bu-Prang được ghi nhận như sau.
* 30 ngày kịch chiến quanh căn cứ biên phòng Bu Prang:
Trước khi tung nhiều trung đoàn bao vây căn cứ Bu Prang, ngày 1 tháng 11/1969, Cộng quân đã pháo kích liên tục với hàng ngàn đạn pháo đủ loại vào các tiền cứ Annie, Susan và Kent trong vùng Bu Prang, đây là những tiền cứ hỏa lực do lực lượng Biệt kích và Pháo binh Hoa Kỳ phòng ngự. Ngày 2 tháng 11/1969, để bảo toàn lực lượng, quân trú phòng tại các tiền cứ nói trên triệt thoái để tăng cường lực lượng cho các khu vực khác tại Quảng Đức.
Ngay sau khi lực lượng trú phòng rút khỏi 3 căn cứ nói trên, sáng ngày 3 tháng 11/1969, Cộng quân tung 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh bao vây và tấn công căn cứ Bu Prang. Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ có 500 Biệt kích quân Biên phòng (Dân sự chiến đấu) và 50 quân nhân Mỹ thuộc liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ trong vai trò cố vấn và trợ lực. Sau hai ngày tấn kích, Cộng quân gia tăng áp lực bao vây chặt căn cứ, phi cơ tiếp tế và tải thương đã không đáp xuống được vì cộng quân pháo kích dữ dội, 2 khẩu pháo 105 trong căn cứ đã bị phá hủy. Từ ngày 7 đến 14/11/1969, Không quân Việt-Mỹ đã liên tục xuất trận oanh kích vào đội hình cộng quân khai triển quanh căn cứ. Ngày 14 tháng 11, giao tranh dữ dội đã diễn ra khi một đơn vị bộ chiến VNCH nỗ lực tấn công để chọc thủng phòng tuyến của cộng quân ngoài căn cứ, cận chiến đã diễn ra ác liệt, phi cơ đã ném bom lầm khi hai bên đang giao tranh, đơn vị VNCH đã có 20 quân nhân bị tử thương, 21 bị thương, phía cộng quân có 95 bỏ xác tại trận địa.
Ngày 15/11, phi cơ chiến lược B 52 đã dội 180 tấn bom xuống vị trí đóng quân của các trung đoàn cộng quân trong khu vực Bu Prang, cũng trong ngày này, phi cơ quan sát phát giác một đoàn chiến xa cộng quân từ ở phần đất Cam Bốt vượt qua biên giới tiền về hướng Bu Prang. Ngày 16/11, 200 đạn trọng pháo của cộng quân từ phần đất Cam Bốt pháo vào căn cứ Bu Prang, ngay sau đó, phi cơ Việt-Mỹ đã xuất trận oanh kích vào các vị trí đặt pháo của cộng quân ở trên đất Cam Bốt cách biên giới 1 km. Một tòa nhà lớn trong khu vực oanh kích bị sập.
Ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn bộ chiến VNCH hành quân giải tỏa áp lực cộng quân ở gần Bu Prang và Đức Lập. Được sự yểm trợ mạnh mẽ của Pháo binh và Không quân Việt-Mỹ, lực lượng VNCH đã hạ sát 243 cộng quân, buộc CS phải rút về hướng biên giới. Từ chiều 18 đến sáng ngày 19/11, phi cơ chiến thuật B 52 dội bom 10 lần với 900 tấn bom xuống các địa điểm đóng quân quanh Bu Prang, Đức Lập, Bố Đức tỉnh Quảng Đức. Ngày 20 tháng 11, Cộng quân tiếp tục tấn kích vào Bu Prang, phi cơ chiến lược B 52 đã xuất trận oanh tạc dữ dội vào khu vực quanh căn cứ này. Từ 21 đến 30 tháng 11, Cộng quân vẫn áp lực nặng căn cứ, hệ thống không vận tiếp tế cho căn cứ gặp khó khăn vì pháo kích. Trong hai ngày 31/11 và 1 tháng 12, Cộng quân pháo kích dữ dội vào căn cứ trong nhiều giờ liền, nhưng vẫn không mở được cuộc tấn công bằng bộ binh, B 52 và phi cơ chiến thuật đã cấp thời can thiệp, oanh kích ngăn chận địch quân. Từ đêm 2/12 đến sáng ngày 3 tháng 12/1969, để giải tỏa căn cứ Bu Prang đã bị bao vây 1 tháng, B 52 đã dội bom 7 lần với hơn 1 ngàn tấn bom xuống khu vực quanh căn cứ Bu Prang. Trong 30 ngày bị bao vây, lực lượng trú phòng tại căn cứ đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn công bằng bộ binh của cộng quân, giữ vững tuyến phòng ngự. Ngày 4/2/1999, B 52 lại xuất trận “dọn sạch” các vị trí đóng quân của cộng quân quanh căn cứ, áp lực CS đã giảm mạnh, trực thăng tải thương và tiếp tế cho quân trú phòng đã đáp xuống được căn cứ. Cũng trong ngày 4/2/1969, bộ Ngoại giao VNCH đã gửi kháng thư cho Ủy hội Quốc tế phản đối Căm Bốt cho CS đồn trú trên đất Miên và tấn công vào Quảng Đức từ 30 tháng 10/1969. (Thời gian này, quốc trưởng Căm Bốt là Sihanouk thân Cộng, ông đã bị tướng Lon Nol lật đổ vào tháng 4/1970 khi đang công du).
* Đại tướng Westmoreland và kế hoạch biên phòng Khi chính thức được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam thay thế đại tướng Harkins vào tháng 6/1964, đại tướng William C. Westmoreland đã đặc biệt quan tâm đến việc phòng ngự ngăn chận cộng quân dọc theo biên giới. Chính ông đã trình với Ngũ Giác Đài tăng cường lực lượng Hoa Kỳ tại Cao nguyên để phối hợp với các đơn vị VNCH tổ chức hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Ông đã nhiều lần đến Quảng Đức để thị sát tình hình và chỉ thị cho bộ chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng 2 yểm trợ Quân đoàn 2 (thời kỳ này, tư lệnh Quân đoàn là thiếu tướng Lữ Lan) để tăng cường lực lượng phòng thủ các tiền cứ và căn cứ hỏa lực tại Quảng Đức. Tháng 6/1968, trước khi rời Việt Nam về Hoa Kỳ để đảm nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân, ông đã lên tiếng báo động về sự leo thang của CS và lưu ý các giới chức quân sự Việt Mỹ là CS sẽ vận dụng đường mòn Trường Sơn để tiến hành các cuộc xâm nhập quy mô vào Tây nguyên và miền Đông Nam phần. Trong bản điều trần ngày 8/10/1969 và được Hạ Viện Hoa Kỳ công bố ngày 1/12/1969, tướng Westmoreland đã nhấn mệnh những điểm như sau: Lực lượng Hoa Kỳ còn phải ở lại giúp Việt Nam Cộng Hòa nhiều năm nữa, vẫn có thể chiến thắng nếu muốn; đã có thể chiến thắng nếu tiếp tục oanh tạc cho đến nay.
1973 Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Đức .
Phản ứng của Địa Phương Quân Quảng Đức là tỉnh Đak Nông bây giờ .
Trong những ngày tháng 7.73, những cuộc giao tranh lẻ tẻ giữa các đơn vị Địa Phương Quân Quảng Đức và cộng quân đã cho thấy những dấu hiệu âm ỉ của một mặt trận lớn, kể từ sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Đức đã tổ chức những cuộc hành quân thám sát liên tiểu đoàn Địa Phương Quân lục soát đến tận đường ranh giới Việt - Miên, chung quanh khu vực đồn biên phòng Bu Prang cũ ( 5Km tới biên giới Miên - Căm Bốt - KamPuChia ) nằm dựa bên con lộ 309 hoang phế. Đồn Bu Prang mới ( 8 Km tới biên giới Miên ở thời điểm năm 1973 đã được bố trí phía dưới ngã ba Tuy Đức và nằm án ngữ ngay trên trục Quốc Lộ 14 dẫn về qua.
Trước những dấu hiệu lạ thường đó, Đại Tá Thiện khẩn xin Quân Đoàn II gửi quân tăng viện. Quân Đoàn II đáp ứng bằng cách gửi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Darlac, là tỉnh giáp giới với Quảng Đức, tỉnh lỵ là Ban Mê Thuột. Nhưng đến tháng 9.1973, thì Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn điều động tiểu đoàn Darlac trở về và gửi hai tiểu đoàn ĐPQ từ Khánh Hòa lên. Như vậy dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Thiện có tất cả bốn Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, ông cẩn thận bố trí tất cả lực lượng này vào hai Đồn Bu Prang và Bu Bong. Mỗi tiểu đoàn được tăng cường một pháo đội Pháo Binh 105 ly. Về phía Gia Nghĩa và những điểm trọng yếu còn lại trong tỉnh Quảng Đức, Đại Tá Thiện có thể an tâm với sự bảo vệ hùng hậu của Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân, trong đó có Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân và người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng trẻ tuổi Vương Mộng Long, mà sẽ cùng đánh văng tất cả các thành phần cộng quân nào đụng đến vị trí của họ.
Song song với những cuộc bố trí quân của QLVNCH ở Quảng Đức, phía cộng sản cũng gấp rút thành lập một lực lượng đặc biệt gọi là Đơn Vị 95, tập trung quân số tương đương một sư đoàn được hợp thành từ Trung Đoàn bộ 205, Trung Đoàn 429 Đặc Công, Tiểu Đoàn 46 Trinh Sát và Tiểu Đoàn 20 Chiến Xa. Hỏa lực yểm trợ rất hùng hậu, với Trung Đoàn 208 Pháo Binh, đơn vị Phòng Không tăng cường thêm loại đại bác 23 mm và hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Tại sao đối phó với bốn tiểu đoàn Địa Phương Quân mà bọn tướng tá Hà Nội phải điều động đến một sư đoàn? Có hai lý do để giải thích. Thứ nhất, cộng sản dường như đã không có thì giờ hoặc đã đốt giai đoạn trinh sát hiện trường, tập quán chiến thuật mà chúng luôn luôn vẫn làm. Tấn công đối phương mà chưa nắm vững địch tình, thì chỉ có cách là đánh liều và dùng số đông để đè số ít. Thứ hai, từ sau thảm bại nhục nhã trong năm 1972, Hà Nội không còn dám coi thường hiệu năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nữa, nên hễ đánh là chúng phải dùng chiến xa và quân số thật vượt trội, rồi bổ sung thêm nhiều súng phun lửa để quyết đánh gục quân Nam.
Bắt đầu vào khoảng thượng tuần tháng 5. 73, cộng sản đã bất chấp Hiệp Định Ba Lê ký kết ngày 27.1. 73. Chúng đã đưa một tiểu đoàn từ Phước Long ồ ạt kéo đến tấn công Bu Bong và Bu Prang. Mục đích là cầm chân lực lượng diện địa Quảng Đức để cho các đơn vị công binh của cộng quân có thể làm một con đường vận chuyển từ Phước Long qua tỉnh Mondol Kiri của Kampuchea và ngược lên Darlac, Kontum, song song với Quốc Lộ 14 phía bên trái từ Quân Khu III đi lên.
Tuy nhiên công trình này bị gián đoạn liên tục vì Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện đã điều động Địa Phương Quân và Pháo Binh tấn công mãnh liệt vào những vị trí đóng quân của địch. Do vậy, công binh địch không hoạt động được. Vì tôn trọng Hiệp Định Ba Lê, chiến sĩ Địa Phương Quân đã không truy kích bọn chúng. Lợi dụng tình thế đó, như những con chuột ẩn trốn khi động và thò mặt khi yên tĩnh, nhiều toán cộng thường xuất hiện cướp phá, giật mìn và pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư gây thương vong cho đồng bào ta không phải là ít. Một đơn vị cộng quân bất ngờ đột nhập chiếm được Nhà Thờ Đồn Trà làm bộ chỉ huy công trường và dự trữ thực phẩm cho đám quân làm đường. Trong những trận giao tranh, chiến sĩ Địa Phương Quân đã tịch thu rất nhiều gạo, cá khô, mắm và muối. Song song với công tác làm đường, giặc cộng còn chiếm một buôn Thượng để thành lập quận. Theo nguồn tin tình báo thì chúng đã đặt tên là quận Kiến Trực.
Thật buồn cười, quận thì có mà dân thì không. Đa số dân sống trong vùng này là người Thượng. Khi quân cộng đến, đồng bào Thượng kéo nhau chạy ra vùng quốc gia để tìm kiếm sự bảo vệ và tìm cách mưu sinh. Anh Ca Don kể lại:
Gia đình anh sống ở đây từ lâu với nghề trồng rẫy, nhưng khi CS đến chúng bắt tất cả đồng bào Thượng trong buôn phải đi làm dân công cho chúng. Ăn uống thì phải tự túc nên đã làm cho dân chúng rất khốn đốn và đói khổ trong vòng nhiều tháng. Khi không được vừa lòng thì bọn lính cộng đánh đập dân Thượng rất tàn nhẫn. Vì thế anh Ca Don đã tìm mọi cách để trốn thoát ra khỏi quận “Kiến Trực” của chúng. Anh Ca Don còn cho biết, mặc dù đường rừng núi đối với anh quá quen thuộc, anh có thể đi bất cứ ngày đêm lúc nào cũng được, nhưng bọn CS canh chừng rất nghiêm nhặt nên rất khó trốn đi. Một trường hợp may mắn cho người dân ở đây khi vào một đêm, CS kéo quân tấn công Đồi 943 bị các chiến sĩ Địa Phương Quân đập cho một trận kinh hồn, làm chúng ôm đầu kéo nhau chạy về “quận” Kiến Trực. Pháo Binh của quân ta rót theo, dội xuống “quận” vài trăm trái đạn làm cho mọi thứ trong đó tung hê đảo lộn cả lên. Nhân lúc hỗn loạn ấy, anh Ca Don và một số đồng bào Thượng đã chạy thoát được.
Lưới tình báo của Tiểu Khu Quảng Đức cũng phát giác được âm mưu của giặc cộng định đánh chiếm những căn cứ thuộc phạm vi tiền đồn Bu Prang để bắt dân Kinh lẫn Thượng về làm dân “quận” Kiến Trực. Để thực hiện điều đó, một trung đoàn cộng sản di chuyển từ Lộc Ninh, tỉnh Bình Long, lên bao vây Bu Prang. Để ứng phó, Đại Tá Thiện điều động một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân lên tăng cường mặt trận. Đích thân Đại Tá Thiện đến quan sát và chỉnh đốn sự bố phòng của quân ta. Mặt trận Bu Prang bắt đầu sôi động, khi hàng trăm quả đạn 82 ly dội lửa xuống Căn Cứ Bạch Phong nằm trên ngọn đồi có độ cao 960 mét, buộc đơn vị trấn giữ triệt thoái. Đại Tá Thiện lệnh cho Tiểu Đoàn 258 và 259 Địa Phương Quân vào chiến trường, tổ chức tấn công tái chiếm Đồi 960.
Tại vùng biên giới những ngày ấy, đột nhiên trời đổ mưa và sương mù dầy đặc, gây rất nhiều khó khăn cho những phi vụ không yểm. Đại Tá Thiện bay chỉ huy trên một chiếc UH 1 vừa hạ cánh xuống bộ chỉ huy thì đã bị cối 82 ly đón chào ầm ĩ. Người Hạ Sĩ Quan đứng dưới đất ra thủ hiệu chỗ bãi đáp trúng miểng pháo bị thương rất nặng. Trung Tá Sơn, Tiểu Khu Phó kiêm chỉ huy cuộc hành quân điều động Tiểu Đoàn 258 ĐPQ của Đại Úy Đề đánh lên đồi từ hướng Tây Bắc, cùng với Tiểu Đoàn 259 ĐPQ của Thiếu Tá Long tấn công mặt Bắc. Các cánh quân của Đại Úy Đề vừa vào đến chân núi thì nhiều trăm trái đạn pháo từ trong những khu rừng thâm u và cao điểm dội xuống, đồng thời đại liên địch từ trên đồi quạt xuống ác liệt chận lại.
Đồi 960 là một ngọn đồi trọc có xạ trường rất trống trải. Công sự thiết lập trên căn cứ đã bị quân giặc chiếm lấy tử thủ với hỏa lực rất mạnh, nên quân ta đã bị sựng lại phía dưới chưa thể tiến lên được. Một phóng viên chiến trường được anh Nguyễn Trước, sĩ quan báo chí tiểu khu hướng dẫn cùng bò lên đến chỗ Đại Úy Đề:
- Chúng đánh dữ quá làm sao lên được Đại Úy?
Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng kề tai người phóng viên: - Lát nữa anh sẽ thấy!
Khoảng năm phút sau, Pháo Binh của quân ta bắn rất chính xác đã làm những khẩu đại liên trên đồi im thin thít. Pháo Binh dọn đường tới đâu quân ta “nhích” theo tới đó. Một sự phối hợp nhịp nhàng mà quân giặc trên đồi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Pháo Binh phá xong một công sự của cộng quân, thì chiến sĩ Địa Phương nhào vô chiếm lấy. Cứ thế quân ta lấn dần lên đồi. Người phóng viên chiến trường của tờ báo lính Chiến Sĩ Cộng Hòa từ Sài Gòn lên khâm phục sát đất cái chiến thuật “Pháo Và Lấn” chưa từng thấy trong binh pháp quân trường. Chẳng những thế mà Đại Úy Đề còn tiết kiệm thật nhiều xương máu con cái. Cứ đủng đỉnh chờ Pháo Binh dọn bãi làm thịt chốt cộng, quân ta ôm súng và lựu đạn nhào lên thanh toán đẹp mắt. Trong khi đó các đơn vị của Thiếu Tá Long cũng đã giải tỏa nhanh chóng áp lực của địch vây hãm một trung đội của ta từ mấy ngày trước.
Đến 11 giờ 45 ngày 30.9.73, các cánh quân Địa Phương Quân Quảng Đức đã tràn ngập Đồi Bạch Phong. Quân ta reo hò cắm Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh căn cứ. Năm cán binh cộng sản còn ẩn trốn gần đó nghe thấy tiếng loa gọi hàng của toán Võ Trang Tuyên Truyền thuộc Ty Chiêu Hồi đã đưa tay xin hồi chánh. Các anh được tiếp đón nồng hậu trong tình anh em ruột thịt và được đưa về Sài Gòn lập lại cuộc đời mới. Nhưng đây chỉ mới là khúc dạo đầu của mặt trận Quảng Đức. Những ngày đỏ lửa vẫn còn đang là những đốm than âm ỉ chờ thời điểm bùng lên thành cơn bão.
Bước sang tháng 10.73, nguồn tin kỹ thuật của những toán Viễn Thám gửi về báo động các thành phần của Trung Đoàn 208 Pháo Binh Bắc Việt đã đặt súng gần Tuy Đức, Bu Prang, Bu Bong và Kiến Đức với những khẩu đại bác 122 ly và 85 ly, súng cối 120 ly. Để bảo đảm mức chính xác, Trung Đoàn 208 Pháo Binh CS đã được cấp phát bản đồ tỉ lệ 1:50.000 được in tại Hà Nội. Đến giữa tháng 10.1973 thì Trung Đoàn 205 bộ binh và Trung Đoàn 429 Đặc Công CS đã áp sát đến gần Buprang. Một cuộc diễn tập tác xạ đã được Trung Đoàn Pháo 208 thực hiện trong năm ngày liền, những loại đạn pháo giặc đã dội lên các vị trí của Địa Phương Quân Việt Nam. Để yểm trợ cho mặt trận Quảng Đức sắp nổ lớn, Trung Đoàn 271 CS và Tiểu Đoàn 46 Trinh Sát di chuyển đến Dakson. Trận liệt của cộng quân đã hoàn thành trong ngày 30.10.1973. Các cánh quân của Đơn Vị 95 sẵn sàng chờ lệnh khai hỏa để tấn công quân ta.
Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện, Tỉnh Trưởng Quảng Đức, đã rút ra được những kinh nghiệm từ sau những ngày địch dội pháo, nên ông đã điều động tất cả bốn Tiểu Đoàn Địa Phương Quân hành quân ra khỏi hai Căn Cứ Bu Prang và Bu Bong, di chuyển tối đa để tránh pháo, đồng thời càn quét địch đến tận khu vực Tuy Đức. Đại Tá Thiện chỉ lưu lại hai căn cứ này một đại đội ĐPQ, một Trung Đội Công Binh và hai pháo đội 105 ly. Lực lượng Địa Phương Quân chỉ được trang bị nhẹ, vũ khí yếu kém, quân số thiếu hụt mà sắp phải đương đầu với một lực lượng cấp sư đoàn của địch.

 ĐI VÀO LÒNG ĐẤT

Mình đã xem phim này 2 lần, 1 lần do bạn mời, 1 lần mình bỏ tiền mua vé cho mình và vợ con đi cùng. Chứng tỏ mình ủng hộ phim Việt Nam lắm và xem cũng kỹ lắm. Một phần là do lần 1 mình bị đến muộn 10 phút, mất đoạn đầu.
Đánh giá của mình có tiết lộ 1 phần nội dung phim, nên ai mà muốn xem phim có đầy đủ cảm xúc thì không nên đọc nhé.
Mấy hôm nay, phim Địa Đạo được tuyên truyền mạnh quá mức cần thiết. Nói thực là mình ghét tâm lý bầy đàn và trò tuyên truyền nhồi sọ nên kiểu tuyên truyền này với mình và không ít người khác sẽ là phản cảm và gây phản ứng ngược. Tương tự như PR xe VF thôi, ăn được đám bo` đỏ thì sẽ mất khối khách hàng khác, không nhất thiết là bo` vàng, mà chỉ là người có nhiều lý trí và tư duy phản biện. Người ta sẽ nghi ngờ tính chân thực của những lời khen kia.
Mình có quen biết anh Nam, nhà đầu tư, anh ấy cũng có mời mình xem phim này trước đây cả tháng, mà mình quên béng mất! Thế tức là mình đánh giá dưới góc nhìn khách quan thôi, chứ không có thù ghét ai cả, cũng chả phải dưới góc nhìn PĐ đâu. Nên anh em PĐ đừng có kỳ vọng gì!
Mình không hay xem phim truyện, nhưng lại hay xem phim truyện chiến tranh, lịch sử và rất nhiều phim tài liệu cùng đề tài. Nên cũng hiểu tương đối. Nhất là về chiến tranh Việt Nam mình càng tìm hiểu sâu.
Phim Địa Đạo, công bằng mà nói, có rất nhiều ưu điểm, so với các phim cúng cụ trước đây. So sánh gần gũi nhất là với Đào Phở, thì phim này có hình ảnh và âm thanh rất chân thực, “rất Tây’. Hóa ra là Tây thật, nên về bản chất, đây là phim “liên doanh”. Về hình ảnh âm thanh hầu hết do Tây làm, thì mới được thế.
Phim chiến tranh và lịch sử, thì dựng phim trường, hình ảnh, âm thanh là cực khó và tốn kém. Phim này làm rất tốt so với phim Việt Nam cùng đề tài. Nhưng không nên nói quá lên, so sánh với bom tấn kiểu Giải cứu binh nhì Ryan hay Kẻ thù trước cổng của Mỹ. Cái dễ hơn về hiệu ứng khói lửa ở phim này là do hầu như không có đại cảnh, những cảnh nhìn từ trên cao thấy rõ là 3D. Bối cảnh của phim khá chật chội, cảnh cận nhiều nên dễ làm hơn.
Một số đoạn cháy nổ, chuyên gia hơi lạm dụng lửa, có phải cứ có bom đạn là lửa đùng đùng đâu, mà phải là cảnh đất đá bay rào rào mới đúng. Ví dụ như đoạn cái cano Mỹ bị đánh mìn, mà quả mìn ngầm dưới nước mất mét. Mìn nổ thì đúng ra nó ục 1 cái rồi cột nước dựng lên, gây lật hoặc làm vỡ cano ra. Đây cano chả vỡ, vẫn bình thường, lại thấy nổ ở bên trên nó, giống như dính 1 quả B40! Hay ví dụ khác là quay cảnh xác chê't VC, toàn thấy như bị cháy bởi bom Napalm nhưng thực ra dính quả đạn bình thường, đúng ra là xác bị nát mới đúng. Nhưng dựng xác bị nát như phim Mỹ là quá khó, nên anh em dựng xác bị bỏng, nó vẫn lành lặn, chỉ hóa trang bề mặt thôi, cho nó dễ.
Tóm lại cái này sạn khá nhiều nhưng với đại chúng có thể bỏ qua, vì có lẽ không để ý như thằng hay xem phim chiến tranh như mình.
Về diễn xuất, nói chung các diễn viên đều diễn đạt vai của mình. Nhưng mà không rõ vai chính, thấy sàn sàn 5-6 đồng chí đều là chính cả, nên tạo cảm giác nhạt nhòa. Thậm chí là lẫn lộn tên đồng chí này với đồng chí khác.
Có nhân vật chú Sáu (lúc mới xem mình tưởng là Sáu Dân!), đại ý là muốn diễn đạt vai trò lãnh đạo của đảng, là cán bộ lãnh đạo từ bưng tới chủ yếu là vỗ về, tuyên truyền không thấy chỉ đạo được gì. Nhưng đoạn buồn cười, xin lỗi vì buồn cười, nhất trong phim này là cảnh chú Sáu đứng ngơ ngác trước cảnh bom đạn vèo vèo, các cháu đang bắn nhau mà chú đứng mặt đờ đẫn, nên bị thương!
Hình ảnh tương tự trong phim We are soldiers (dựng lại trận IaDrang lần đầu VC đụng độ lớn với Mỹ), thì anh chỉ huy Mỹ cũng không hề nằm, bo` khi có bom đạn (chắc là bịa, thực tế chắc nằm dính xuống đất). Nhưng bọn Mỹ dựng hình ảnh anh hùng cách mạng cho lãnh đạo, sĩ quan đi lại mặt mũi hiên ngang hò hét chỉ đạo anh em chiến đấu, chứ không như chú Sáu của ta. Nhẽ chú là chính ủy nên mới ngẩn ngơ khi có bắn nhau vậy?!
Nhưng đỉnh cao của hài hước không phải chỗ đó, nhưng vẫn là chú Sáu. Sau khi bị thương và quyết định ra hàng để câu giờ, cho các cháu trong địa đạo tìm đường thoát, chú Sáu bị Mỹ bắt. Đúng quy trình là bắt người là lính Mỹ sẽ khám xét xem có vũ khí không. Nhưng mà khám ng u, để chú vẫn găm được quả lựu đạn, sau đó giật nổ! Trong lúc câu giờ, chú tuyên truyền lịch sử cách mạng với bọn Mỹ và 1 thằng phiên dịch gọi điện về căn cứ. Đại khái tuyên truyền tinh thần đấu tranh CM với bọn Mỹ rõ là dài, mà bọn Mỹ lại ngoan cứ để chú che'm thoải mái luôn. Chứ thực tế nó tát vỡ mồm tù binh lại cứ nói linh tinh, không đúng trọng tâm thẩm vấn! Nói chung tuyên truyền bằng tiếng Việt với bọn Mỹ, rồi phải dịch ra là buồn cười và vô lý lắm rồi.
Về biên kịch, tức là nội dung phim ấy, nói chung phim ít có tính điện ảnh, nói thẳng là kịch bản khá chán. Nó giống như là dựng lại phim tài liệu vậy, thiếu kịch tính để gây nên tính bất ngờ cho phim. Xem đoạn đầu, mình còn tưởng cậu thợ cơ khí là 1 “đặc tình” của bên kia cài vào nhóm du kích để gây nên những bất ngờ ở cuối, nhưng lại không phải. Vì thế nên phim quanh quẩn ở quanh địa đạo, thiếu chuyển cảnh và các tiết tấu mang tính điện ảnh để đỡ buồn ngủ.
Nếu coi đường hình và tiếng là lớp vỏ bao bì, kịch bản là lõi, thì phim này có bao bì đẹp, có thể gây choáng ngợp cho đám đông, với cảnh bom rơi đạn nổ khá bắt mắt. Nhưng phần ruột thì không ổn, gần giống xem phim tài liệu nhồi thêm tý tuyên truyền.
Chính vì có vỏ bắt mắt, nên người xem dễ bị tâm lý choáng ngợp, dễ bỏ qua các hạt sạn trong phim. Tất nhiên sạn kiểu này phải có mắt cú vọ, tinh tế chút, cộng thêm vốn sống và kiến thức xã hội mới nhìn thấy rõ và nhanh. Cái này là bệnh chung của phim Việt Nam thời kỳ đổi mới, xem phim bi mà lại thấy hài vì sạn.
Ví dụ đoạn anh Hai Thưng giao nhiệm vụ BÍ MẬT cho anh Bảy nhưng chả hiểu sao lại phải đọc mật lệnh oang oang trong khi lính lác đi lại ngay cạnh, cách 2m (lệnh là bí mật với cả lính). Trong khi rõ ràng là chỉ cần đưa tờ giấy lệnh cho đọc rồi thu lại đốt là xong.
Cảnh các chiến sĩ du kích thấy món cá khi ăn cơm mà ồ cả lên kiểu như lâu lắm mới có món ngon. Thực tế là vô lý. Vì địa đạo ngay cạnh sông. Dân miền Nam họ bắt cá dễ không, cá ở vùng sông nước còn dễ kiếm hơn là gạo hay rau. Nên du kích có lẽ ăn cá phát chán luôn, thèm thịt bo` nghe còn có lý!
Cảnh anh thợ vác súng ra bắn máy bay Mỹ với mục đích là để khiêu khích Mỹ ném bom xăng xuống, để ảnh thu phế liệu vỏ bom, rồi bán phế lấy tiền mua gạo, thì là 1 sáng tạo ghê gớm của kịch bản! Khéo bắn xe tăng để thu phế liệu bán lấy tiền mua gạo luôn?! Theo mình biết thực tế lúc đó phe ta chỉ sợ không tìm được dân thì mới đói, chứ chả việc gì phải đi bán phế liệu chiến tranh đâu mà đi xin gạo dễ dàng, không cho thì dùng súng là có hết.
Cảnh quân ta xxx nhau trong hầm, tuy câu view gen Z nhưng khá là vô lý. Ban đầu mình tưởng anh chị yêu nhau rồi chịch trộm thì còn logic, như trong phim Enemy at the gate. Đây là đồng chí du kích nam hấp diêm trộm đồng chí du kích nữ xinh nhất đoàn. Lẽ thường bộ đội, du kích, họ sẽ ngủ tập thể, từng khu vực riêng của nam và nữ. Nên vụ hấp diêm này khó xảy ra, do trong phim là nữ du kích ngủ hầm riêng, nên đến đêm là nam du kích bo` vào xơi. Nữ du kích bị/được xong lại không báo cán bộ để có bầu, rồi thủ trưởng phải đứng ra nhận làm tác giả để tổ chức đám cưới. Nó khiên cưỡng quá đi. Tác giả thật chỉ tự khai khi mù mắt do khí độc. Có hơn chục nam du kích thôi mà nữ đồng chí kia lại không thể phát hiện ai chịch mình.
Cũng cảnh xxx này, nó vô lý về mặt TD học. Vì bom đang ầm ầm, sợ sun cả t..im lại mà sao vẫn chịch được chứ? Về tâm sinh lý là không được đâu chỉ có sợ són cả cứt đái ra thì được.
Đoạn dùng rắn để cắn lính Mỹ mình thấy cũng ảo, chả nhẽ nuôi rắn độc để làm việc đó, trong khi quá rủi ro khi nuôi bọn này, trong địa đạo nó có gì ăn đâu?
Đoạn cuối, chắc để làm tăng kịch tính lên cao trào, nên mới có cảnh đấu súng với lính Mỹ. Mà bọn lính Mỹ ng u vãi, vừa bo` vừa soi đèn pin, nên đi đến đâu là du kích biết để thịt! Bài chuẩn là nó phun khói độc vào trước để biết chắc không có VC còn sống rồi nó mới đeo mặt nạ bo` vào. Chắc khó mà có màn đấu súng. Bọn Mỹ hèn lắm!
Cảnh chú lính Mỹ bị cô du kích dùng cái gậy tre vạt chéo đầu xiên qua thân người như xiên miếng chả cũng khá vô lý. Cô này xiên thằng Mỹ qua cái lỗ vách hầm chỉ vừa với cây gậy thì nhìn sao được nó mà xiên? Nhỡ trượt thì sao? Nhỡ xiên vào mông vào chân thì sao mà chê't được. Đây ăn may là xiên qua sườn. Nhưng nó lại không chê't, còn kêu cứu và cô chú du kích lại cứu nó! Chứng tỏ quân ta rất nhân văn. Nó vừa giê't bao đồng đội ta xong mà lại cứu nó liền, cho nó lên cái bè chuối (không biết đóng lúc nào) thả trôi trên sông và đốt đám cỏ trên bè để có khói bốc lên.
Lại thêm cảnh 2 cô chú này lặn dưới sông ngậm ống thở. Thật khó hiểu vì không biết sao phải lặn vậy khi xung quanh yên ắng không có lính Mỹ truy đuổi? Không hiểu thả thằng Mỹ lên bè trôi sông để làm gì? Đốt khói để báo hiệu cho Mỹ đến cứu chăng? Thế thì chu đáo quá.
Tóm lại, phim Địa Đạo cũng đã thoát khỏi lối mòn xưa ta thắng địch thua, có tuyên truyền thì cũng đỡ thô hơn trước. Phim cũng mạnh dạn để cho thủ trưởng chửi thề đe'o (hình như dân Nam ngày xưa không chửi từ đó?), tính tình khá cục cằn chân thực. Hay mạnh dạn đưa chủ đề xxx kiểu Mỹ vào phim dù không lộ hàng. Du kích mà hấp diêm nhau thì chắc là sáng tạo mới trong phim?! Phim không e ngại mô tả cảnh quân ta chê't chóc tang thương cũng là 1 điểm mới.
Mình chỉ nhớ đại khái vậy thôi. Đồng bào cứ đi xem để có trải nghiệm nhé, nhà mình ủng hộ 4 vé rồi đó. Tóm lại là phim vẫn hay, nên xem cho…biết những chỗ hay. Mình cố tình không kể cụ thể tuần tự nội dung phim, chỉ review các lát cắt, để mọi người còn đi xem đó.
Em xin lỗi đoàn làm phim và nhà tài trợ, xin lỗi đảng và quân đội, em thà không xem hoặc không đánh giá, chứ không thể che'm ẩu lừa đồng bào được. Chỗ nào hay thì bảo hay, chỗ nào chưa hay thì cũng phải nêu rõ để còn rút kinh nghiệm. Đây sẽ là phim tài liệu hay nhất trong các phim truyện và phim truyện hay nhất trong các phim tài liệu.
Mạnh dạn chấm điểm như trên IDMB thì phim này tầm 5-6 điểm. Ai đó bảo đi dự Oscar thì biết đâu cũng được, vì bọn Mỹ chắc không thấy sạn ta đâu, vì nó không hiểu!
Trong ảnh là cảnh chú Sáu đang diễn thuyết trước khi giật lựu đạn.
Ba Sao and others
250
67
Like
Comment
Share
Cao Phan
Chưa xem phim, nhưng đọc đoạn re-view "Cảnh anh thợ vác súng ra bắn máy bay Mỹ với mục đích là để khiêu khích Mỹ ném bom xăng xuống, để ảnh thu phế liệu vỏ bom, rồi bán phế lấy tiền mua gạo" trước 75 trong này, phế liệu đầy, ai mua mà bán? thu gom rồi bán cho ai, làm gì có Xưởng tái chế phế liệu?

Sunday, April 6, 2025

 https://youtu.be/IPMFWgBeks8?si=Q0QTM-3OGd8uX5Hc



https://youtu.be/l564sLIDmsw?si=1IEGyi4T9XSHBiHd

     



 

Trận đánh đồn Phước Quả


                                                            
          Chị Tố Lan thân mến,
Đây là anh bạn của tôi kể lại trận đánh đồn Phước Quả. Nếu có thể chị post cho các bạn đọc biết đâu có bạn biết.
Lý Mỹ Hạnh 
                         ************************************ 
Nguyễn Ngọc Thạch 
                        
 Ghi lại để tưởng nhớ đến các chiến hửu thuộc Tiểu đoàn 3/9 Sư đoàn 5 Bộ Binh



Vào năm 1967 Tiểu đoàn được lệnh hành quân lên vùng Phước Long, lúc đó tôi là sĩ quan Ban 3 Tiểu đoàn, chuyên lo về hành quân và huấn luyện. Sau khi đặt chân xuống sân bay Phước Bình, Tiểu đoàn được lệnh di chuyển vào vùng hành quân với nhiệm vụ được giao phó là thực hiện kế hoạch Bình định Xây dựng vùng phía đông quận lỵ Phước Bình qua các xã Phước Sơn, Phước Quả, Phước Lộc và Hiếu Phong. Tiểu đoàn được phối trí như sau: BCH/TĐ + ĐĐCHCV + ĐĐ11 đóng tại đồn Phước Quả, ĐĐ10 đóng tại đồn Phước Lộc cách Phước Quả ba cây số, và ĐĐ9 hoạt động lưu động trong vùng trách nhiệm.
Tỉnh Phước Long nằm về hướng Đông Bắc của Sài Gòn. Đường quốc lộ 13 chạy về phía Bắc sẽ qua Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Bến Cát rồi tới quận Chơn Thành. Ở đây là ngả ba nếu rẽ về phải thì sẽ đi Đồng Xoài, Phước Bình, Phước Long và từ Đồng Xoài có ngả rẽ để đi Bù Đăng và Ban Mê Thuột. Còn nếu từ ngả ba Chơn Thành chạy thẳng thì sẽ đến An Lộc, Bình Long, Lộc Ninh. Khi đến gần biên giới Việt Miên xã Lộc Tấn, nếu chạy thẳ̉ng thì sẽ qua biên giới và tới thị trấn Snuol của Campuchia, còn ở ngả ba Lộc Tấn rẽ phải thì sẽ đi qua Bù Đóp (Bố Đức), con đường này nằm xong xong và cách biên giới 3 cây số. Đi tiếp tới sẽ đến quận lỵ Phước Bình và quẹo trái sẽ lên tỉnh lỵ Phước Long. Đây là vùng biên giới Việt Miên nằm trong hai tỉnh Bình Long và Phước Long với những đồn điền cao su bạt ngàn, đồn điền Michelin Dầu Tiếng, đồn điền Terre Rouge Hớn Quản, Lộc Ninh, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch, Bồ Com, Văn Hiến v.v...
Phước Long là một tỉnh lỵ mới được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nằm cách quận lỵ Phước Bình 8 cây số và gần núi Bà Rá. Đây là môt vùng rừng xanh đất đỏ sương lam chướng khí rừng thiêng nước độc, sốt rét rừng, ngày xưa ai mà bị đổi lên Bà Rá tức là coi như bị đày. Theo kinh nghiệm của dân địa phương cho biết là không nên ăn măng le, uống nước suối và ngủ̉̃ trưa, nên ăn nhiều ớt để tránh bệnh sốt rét rừng.  
Tình hình chiến sự tỉnh Phước Long lúc đó rất là căng thẳng, bị áp lực rất nặng vì cách mật khu Bù Gia Mập của VC không xa về phía Đông Bắc núi Bà Rá. Mật khu của VC ở bên kia biên giới Việt Miên rất là an toàn vì quân lực VNCH cũng như Hoa Kỳ không được quyền xâm phạm vào lảnh thổ của Miên. Nhưng trái lại thì quân CSBV lợi dụng thế trung lập thân cộng của Miên và Lào để làm hành lang xâm nhập qua đường mòn Hồ Chí Minh và xây dựng các mật khu an toàn của chúng ở bên kia biên giới. Quân CSBV tập trung ở các mật khu an toàn ở bên kia biên giới, đợi thời cơ thuận tiện để xâm nhập đánh phá, với mục tiêu và thời điểm là hoàn toàn do chúng lựa chọn, quân ta không có quyền gì khác hơn là ra sức chống đở tự vệ mà thôi.
Trong thời gian này chúng tôi đã chứng kiến một sự tàn ác dã man của VC khi chúng tấn công vào làng Dakson của người Thượng, ở phía đông bắc thị xã Phước Long và cách mật khu Bù Gia Mập không xa lắm. Khi Tiểu đoàn chúng tôi đến nơi thì VC đã rút đi để lại một cảnh hết sức đau lòng, VC đã giết sạch, đốt sạch nguyên cả làng sau khi toán nghĩa quân giữ làng bỏ chạy. Nhìn những thân hình mà đa số là đàn bà con trẻ bị đâm bị giết một cách hết sức dã man bị đốt cháy đen nằm trong các đống than hồng còn đang bốc khói làm liên tưởng đến bọn giặc Tàu phương Bắc đã từng đối xử với dân tộc ta trong thời kỳ Bắc thuộc: “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Ngày 26 tháng 10, 1967 CSBV mở cuộc tấn công đại quy mô vào đồn Phước Quả. Vào khoảng 11 giờ đêm tôi nghe một loạt súng bắn báo động, lập tức tôi nhảy xuống hầm Trung tâm Hành quân để liên lạc với các toán tiền đồn phục kích bên ngoài. Phản ứng của tôi rất là nhanh, chổ tôi nằm trong căn nhà tranh sát cạnh hầm nên tôi phóng nhanh vô hầm. Vừa ngay lúc đó VC bắt đầu pháo kích dử dội, pháo như mưa đều khắp mọi nơi trong đồn. Ngay chổ tôi nằm, ở phía đầu nằm tôi có treo một tấm poncho để che mưa che nắng, sau này nhìn lại tấm poncho rách nát, không còn một chổ nào lớn hơn bàn tay. Trung úy Nhơn, Tiểu đoàn phó, có nuôi một con két nhỏ xíu cũng bị đứt đầu, nếu như tôi chỉ chậm chân chừng vài giây đồng hồ thì chắc đã nát thây. Những người chạy xuống hầm sau tôi đa số đều bị thương, trong số đó có Trung sĩ Võ Đà ban 5 Tiểu đoàn bị thương rất nặng, bị đứt mạch máu ở cổ quị ngay dưới chân tôi, máu phun ra có vòi, y tá đến băng nhưng không cứu kịp vì máu ra quá nhiều, ngồi chết dưới chân tôi. Số người bị thương nằm la liệt trong hầm, trong toán cố vấn Mỹ cũng có người bị thương nặng nằm ở một góc hầm.
Trong lúc đó thì các đại đội trưởng báo cáo tình hình ở các phòng tuyến đang bị tấn công với một hỏa lực rất là mạnh. Tôi gọi báo về Tiểu khu để xin pháo binh yểm trợ, nhưng tình hình ở BCH/Tiểu khu lúc đó cũng đang lúng túng vì đang bị pháo kích. Bởi vì khi địch mở một cuộc tấn công lớn, thường thì nó pháo kích khắp nơi để cho ta không biết đâu là điểm đâu là diện, chổ nào là mục tiêu chính, chổ nào là mục tiêu phụ. Và vì tôi nắm vững tình hình ở đây nên tôi quyết chắc là nó đánh điểm chính là ở đây, đồn Phước Quả. Tôi báo cho Tiểu khu biết rõ tình hình đang nghiêm trọng để tập trung yểm trợ về đây và đồng thời báo về BCH/Trung đoàn 9 ở Chơn Thành biết để theo dỏi.
Có một sự việc đáng nhớ là trước đó chừng một tháng có một Lao công Đào binh bỏ trốn. LCĐB là những quân nhân đào ngủ bị phạt đưa ra chiến trường để làm lao dịch, cho nên Thiếu tá Tôn Văn Lượng, Tiểu đoàn trưởng, liền cho thay đổi ngay kế hoạch phòng thủ. Lúc trước súng đại liên đặt ở các pháo đài góc, sau thay đổi lại đặt vào giửa các cạnh tuyến. Vì vậy khi VC mở các cuộc tấn công biển người vào giửa các cạnh tuyến, liền bị hỏa lực hùng hậu của các khẩu đại liên của ta chận đứng. Một điều đáng nói là vào năm 1967, quân đội ta vẫn còn dùng súng Garant, Carbine, Thompson, Trung liên đầu bạc, Đại liên 30 có từ thời Đệ nhị Thế chiến. Trong khi đó thì phía VC đã có súng AK47, B40, B41, Thượng liên nồi, súng phun lửa rất là tối tân.
Quân ta chống trả quyết liệt, nhưng vì hỏa lực địch quá mạnh nên độ nửa giờ sau thì một pháo đài góc đã bị tràn ngập. Không chần chờ Thiếu tá Lượng liền quyết định tung ra Trung đội Quân báo để tái chiếm lại pháo đài góc đó. Trung đội Quân báo là một lực lượng để bảo vệ BCH và là lực lượng trừ bị duy nhất của Tiểu đoàn, chỉ được sử dụng trong tình huống thật lâm nguy. Sau khi Quân báo đi rồi thì thành phần còn lại trong hầm TTHQ lo bố trí phòng thủ lại cho kỹ, những thùng lựu đạn cho mở nắp sẵn sàng để sử dụng khi địch tới gần và tôi cũng đã gọi pháo binh để chuẩn bị sẵn các loại đạn đầu nổ cao. Nếu trong trường hợp bị địch tràn ngập thì sẽ xin pháo binh bắn đạn nổ cao ngay trên đầu, tiêu diệt địch ở bên ngoài, còn bên ta tất cả ở trong hầm sẽ vô hại. Tuy nhiên đây là một quyết định cuối cùng khi đã lâm vào tình thế tuyệt vọng.
Chừng 10 phút sau Trung đội Quân báo báo cáo là đã chiếm lại được pháo đài góc, chận đứng sự xâm nhập của địch, giữ vững được phòng tuyến. Chúng tôi rất mừng, nhưng với áp lực địch quá mạnh tôi sợ các đợt xung phong kế tiếp sẽ dữ dội hơn nên tôi nói với Cố vấn Mỹ xin phi cơ chiến đấu phản lực lên yểm trợ. Cố vấn Mỹ đi theo Tiểu đoàn thường là họ chỉ lo giúp đở xin phương tiện tản thương hay yểm trợ hỏa lực, họ gọi rất là nhanh qua hệ thống liên lạc tối tân và trực tiếp bên phía Mỹ.
Một lúc sau Đại úy Cố vấn cho biết là máy bay đã cất cánh và yêu cầu ngưng tác xạ các loại súng bắn vòng cầu để máy bay vào vùng. Tôi gọi ngưng các loại súng cối và pháo binh và cho đốt mũi tên lửa lên để cho máy bay thấy. Mũi tên lửa là một tấm ván lớn cắt theo hình mũi tên, trên đó có gắn các lon sửa bò trong nhét vải bố tẩm dầu cặn và quay trên một trục. Khi đốt lửa lên và quay mũi tên chỉ về hướng địch đang tấn công, thì máy bay sẽ thấy rõ vị trí của địch mà đánh. Tôi xin dội bom theo hướng mũi tên và cách xa 500 thước. Sau khi dội trái bom đầu tiên, Đại đội trưởng ở ngoài tuyến báo cáo cho biết là xa quá vì địch quân đang bám sát hàng rào rồi, phải đánh gần lại. Tôi liền yêu cầu gần lại 200 thước và các quả bom sau đã đánh trúng mục tiêu. Sáng ra thấy các bộ phận con người bay văng tung tóe lên nóc nhà trông rất là ghê rợn.            
VC tiếp tục mở thêm nhiều đợt tấn công nữa nhưng không thành công nên đành phải chịu rút lui trước khi trời rạng sáng. Chiếc máy bay trực thăng tản thương đã đáp xuống khi trời còn chưa sáng hẳn. Chúng tôi vô cùng biết ơn và cãm phục những người phi công chiến đấu cũng như phi cơ trực thăng tản thương đã can đãm băng mình trong lửa đạn, trong đêm tối cực kỳ nguy hiểm để cứu nguy cho quân bạn, một điều rất khó khăn và nguy hiểm cho không quân yểm trợ là vị trí đồn Phước Quả nằm gần chân núi Bà Rá.
Sáng ra thu dọn chiến trường địch quân chết quá nhiều trên 200 xác trong và ngoài hàng rào đầy mìn bẩy và tịch thu được một số rất lớn vũ khí tối tân đủ mọi loại như K54, AK47, CKC, B40, thượng liên nồi và đặc biệt là hai cây súng phun lửa với hai bình hơi trông rất là lạ. Có một lính Quân báo chui ra hàng rào để lấy chiến lợi phẩm bị mìn nỗ cụt chân. Và vì không thể nào lấy hết xác để chôn cất được, cho nên sau cùng phải dùng dầu tưới lên để thiêu đốt tất cả.
Sau chiến thắng to lớn này tưởng đâu là sẽ được yên ổn trong một thời gian dài nhưng không ngờ chỉ vài ngày sau là chúng liền mở ngay một trận kế tiếp để phục thù. Đại đội 9 đang hoạt động lưu động bên ngoài giữ nhiệm vụ an ninh lộ trình từ Phước Quả ra Phước Bình. Thì vào lúc 12 giờ trưa bị VC dùng vận động chiến mở cuộc tấn công chớp nhoáng tràn ngập Đại đội 9. Tôi nghe tiếng thều thào trong máy của Lê Sĩ Linh khóa 20 Đà Lạt ĐĐT/ĐĐ9 cho biết là VC đông lắm yêu cầu cho bắn ngay trên đầu, rồi im bặt. Chúng tôi tức tốc điều động lực lượng ra tiếp cứu nhưng vì địch quá mạnh nên báo cáo lên Tiểu khu xin tiếp viện.
Sau đó Khu 32 Chiến thuật liền cho tăng viện Tiểu đoàn 31 Biệt Động Quân do Đại úy Trắng chỉ huy, đổ quân từ nhà thờ Phước Sơn đi xuống. Khi đến cua Phước Quả thì chạm địch rất mạnh, chiếc commando car bị bắn cháy, TĐ31/BĐQ bị áp đão vì địch quân quá đông và vì chiến trận là do họ sắp đặt phục kích sẳn. Vì vậy sau cùng TĐ31/BĐQ phải dạt ra, rút về phía chân núi Bà Rá khi trời tối và tìm đường về đến đồn Phước Quả. Qua ngày hôm sau được tăng viện thêm TĐ36/BĐQ mới giải tỏa xong. Khi ra thu dọn chiến trường, Trung úy Linh đã hy sinh bên hố chiến đấu kiến bu đầy người và bên cạnh đó còn có mâm cơm với ba quả trứng luột còn nguyên chưa kịp ăn. Ngoài ra còn có hai sĩ quan Trung đội trưởng đã anh dũng hy sinh đó là Thiếu úy Sến, khóa 21 Đà Lạt và một Chuẩn úy mà tôi quên tên, là cháu ruột của Đại tá Woong A Sáng, Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ Binh lúc đó.
Một tuần sau VC lại mở một cuộc tấn công kế tiếp nhằm vào đồn Phước Lộc do ĐĐ10 trấn giử, Trung úy Trần Hửu Tâm khóa 21 Đà Lạt làm ĐĐT. Tâm mới vừa được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận. Trước kia Tâm học khóa Biên tập viên Cảnh sát, nhưng sau đó đổi ý, không thích ngành Cảnh sát mà tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia. Đồn Phước Lộc nằm trên ngọn đồi  bên cạnh liên tỉnh lộ Phước Bình – Quảng Đức, cách đồn Phước Quả ba cây số.
Trong đêm đó VC kéo đại lực lượng tới tấn công, Tâm cho biết là địch rất đông, hỏa lực địch rất mạnh, cho nên tôi đã gọi Pháo binh yểm trợ ngay. Sau đó vì địch mở các đợt xung phong quá dử dội cho nên tôi phải nhờ Cố vấn Mỹ gọi chiến đấu cơ lên yểm trợ gấp. Nhờ vào sự yểm trợ vô cùng hửu hiệu của các phi tuần phản lực mà đã chận đứng được các đợt xung phong biển người của địch. Và vì theo lời Tâm yêu cầu cho yểm trợ sát cạnh cho nên có một quả bom rớt quá gần, gây cho bên ta một số bị thương, trong số đó tôi nhớ có Thượng sĩ Hồ Hến Lòng, là một Trung đội trưởng người Nùng rất dày dạn chiến trường, đã bị thương nặng và sau này phải bị giải ngủ.
ĐĐ10 đã chống trả vô cùng anh dũng, giử vững phòng tuyến cho đến sáng buộc địch quân phải rút lui để lại trên 100 xác chết và la liệt súng đạn đủ loại. Sau đó phải dùng xe ủi đất mới thu dọn sạch hết được. Một đặc điểm của đồn Phước Lộc là nằm trên đỉnh đồi cao, phía trước bằng phẳng gần liên tỉnh lộ, còn mặt sau là triền dốc cao rất khó tấn công. Vì vậy hệ thống mìn bẩy cũng như các hỏa tập tiên liệu của súng cối và pháo binh đều tập trung vào mặt trước của đồn. Khi VC tấn công vào phía trước chúng đã bị lọt vào vòng vây hỏa lực rất mạnh của đồn.
Đây là những chiến thắng lẩy lừng của Quân đoàn III, đã ghi lên những chiến tích vẽ vang trong quân sử của QL/VNCH. Và đã có bản nhạc để ca ngợi 72 tay súng oai hùng giử đồn Phước Lộc, cũng như bài ca Phước Quả và trước đó là bài ca Chiến thắng Lộc Ninh của Trung đoàn 9 Sư đoàn 5 Bộ Binh trong trận tái chiếm quận lỵ Lộc Ninh vào năm 1966. Chiến thắng Phước Quả cũng đã được nhắc lại trong quyển "Chiến thắng bị bỏ lở" của giáo sư Stephen Young và trong bộ sách "Một thời nhiễu nhương" của Bạch Hạc Trần Đức Minh ./.
Nguyễn Ngọc Thạch khóa 20 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam