Sunday, July 27, 2025

QUÂN CSBV CHIẾM 1 TIỀN ĐỒN Ở CAO NGUYÊN

Nguồn: Hãng AP ngày 3/11.1972.

Sài gòn, nam VN, thứ Sáu, 3/11/1972 -- Hôm qua, Bắc quân dẫn đầu bởi xe tăng đã tràn ngập 1 trại biên phòng khác ở Cao nguyên Trung phần trong khi quân hai bên chiến đấu để mở rộng lãnh thổ trước khi ngừng bắn.

Đức Cơ, 12 dặm cách biên giới Cao Miên và 27 dặm tây nam Pleiku, tin cho biết đã rơi trước rạng đông dù cho những cố gắng suốt 24 giờ của gunship và oanh tạc cơ nhằm đẩy lui kẻ thù. Trại này là 1 trong loạt các căn cứ biên phòng để quấy rối đường xâm nhập.

Phát ngôn viên CP cho biết địch đã mở 142 cuộc tấn công khắp nam VN trong 24 g chấm dứt lúc rạng đông. Phát ngôn viên nói đây là số lượng nhiều nhất chỉ trong 24 giờ trong vài năm qua, nhưng phần lớn là pháo kích quy mô nhỏ bằng cối và hỏa tiển.

Đài Hà Nội nói Mỹ trì hoãn ký kết bản dự thảo hiệp định Paris đã khiến họ "ko có chọn lựa nào khác là đẩy mạnh chiến đấu trên mọi mặt trận." Trong trận Đức Cơ, có tin ít nhất 3 xe tăng bị không quân đồng minh phá hủy.

BĐQ bảo vệ trại đã rút bỏ sau khi bị pháo bằng đại bác và hỏa tiển và bộ binh tấn công 3 mặt. Một số rút chạy về một khu rừng cách đó khoảng 500 m, và bắt tay với những đv khác.

Máy bay tiếp tục ném bom suốt ngày vào quân địch trong khu vực, để chuẩn bị 1 phản công.

BA TRẠI BỊ TRÀN NGẬP

Có tin ngày hôm qua Bắc quân xâm nhập 1 ấp cách Pleiku 4 dặm. Tin cho biết, đó là ấp Pleiblang 3, đã được tái chiếm sau đó, với 4 tên chết và 1 số tài liệu bị tich thu. (Pleibang 3 nằm trên một tỉnh lộ chạy từ Pleiku về phía chính tây -- ND).

Các viên chức ở Pleiku nói biến cố này cho thấy các đv chính quy của CSBV đã chia thành nhiều toán nhỏ và cố gắng xâm nhập càng nhiều khu vực càng tốt để chuẩn bị cho 1 ngưng bắn. 

Phát ngôn viên CP thông tin về trận đánh gần SG, nói rằng quân cs đã bị đẩy lui khỏi 4 ấp mà chúng đã chiếm trong khu vực và những QL chánh trong vùng thủ đô đã mở lại. 

Thông cáo cho biết các ấp được tái chiếm ở 12 dặm tây bắc của SG tới 20 dặm đông của thủ đô./.

 

ENEMY CAPTURES A HIGHLANDS POST

About the Archive
T

SAIGON, South Vietnam, Friday, Nov. 3—Tank‐led North Vietnamese troops overran another border camp in the Central Highlands yesterday as both Communist and South Vietnamese forces fought to expand their territorial control before a cease‐fire.

Ducco, 12 miles from the Cambodian border and 27 miles southwest of Pleiku, reportedly fell before dawn despite roundthe‐clock efforts by United States and South Vietnamese gunships and bombers to turn back the enemy attacks. Ducco was one of a series of frontier base camps set up to counter enemy infiltration.

The Saigon command reported that enemy forces made 142 attacks throughout South Vietnam in the 24 hours ended at dawn. Spokesmen said it was the largest number recorded in any 24‐hour period in several years, but many of them were small‐scale rocket and mortar barrages.

The Hanoi radio said the United States delay in signing the draft peace settlement had left “no other choice than to step up the fight on all fronts.” In the battle for Ducco, at least three enemy tanks were reported knocked out by allied air attacks.

Advertisement

SKIP ADVERTISEMENT

Government rangers defending the base abandoned it after being pounded by artillery and missiles and assaulted on three sides on the ground. Scores of defenders reportedly broke out to the relative safety of a jungle plateau 500 yards away where, according to reports from the field, they joined other Government troops.

Air strikes ‘on Communist troops in the area continued through the day, it was reported, to prepare for a Government counterattack.

3 Camps Overrun

Ducco was the third border camp to be overrun in the Central Highlands in less than month. Benhet and Dakseang fell in October.

In other action yesterday, North Vietnamese troops were reported to have penetrated a hamlet less than four miles outside Pleiku. Reports from the field said Government troops retook the hamlet, known as Pleiblang 3, yesterday morning, killing four enemy soldiers and capturing a number of documents.

Advertisement

SKIP ADVERTISEMENT

Officers in Pleiku said the incident indicated that units of the North Vietnamese main forces were breaking into small groups and trying to penetrate as many areas as possible in preparation for a cease‐fire. Similar reports came from Danang, headquarters for the country's northern military region.

Reporting on the fighting near Saigon, a South Vietnamese military spokesman said that Communist troops had been driven out of four hamlets they had seized in the area and that all major highways in the captal region were open.

A communiqué said the reoccupied hamlets ranged from 12 miles northwest of Saigon to 20 miles east of the capital

Related Content

More in Archives

 https://www.specialforces78.com/ii-corps-and-the-battle-to-split-vietnam-part-ii/


               

Ý nghĩa của các số:
1/ Trại DSCĐ Đức Lập bị tấn công bởi quân CSBV từ 23 - 26 tháng 8/1968.
2/ Hầm hố, bịnh viện, khu tập kết và vị trí đặt rocket của CS dấu trên các đồi núi.
3/ Khu vực đồi núi chiếm giữ bởi quân của BCH 2 Mike Force từ Pleiku vào đêm 23 và 24/8.
4/ BCH chi khu Đức Lập cố thủ bởi lính VNCH dù bị tấn công liên tục từ 23 - 28/8.
5/Đường tiến quân của quân của BCH 5 Mike Force từ Nha Trang vào ngày 25/8, nơi mà họ tái chiếm ngọn đồi bắc đã bị chiếm trước đó bởi csbv.
6/ Đường tiến quân của BCH 2 Mike Force vào ngày chủ nhật nơi mà giúp Mike Force 5 Nha Trang chiếm lại đồi bắc.







 NDC -- SAU NĂM Ở LÍNH.



Rồi cũng chẳng nghỉ ngơi được bao lâu, chúng tôi nhận lệnh : tiếp ứng và giải vây cho căn cứ Đức Cơ nơi Tiểu Đoàn 81 BĐQ đã bị bao vây 3 tuần lễ.

8 giờ sáng đã bắt đầu trực thăng vận , tôi theo BCH/TĐ nhảy xuống trong slick đầu tiên, bãi đáp đã được pháo và những phi tuần phản lực “dọn kỹ “, sau này tôi mới hiểu đây là “sự im lặng đầy chết chóc đang rình chờ” ,quân thả xong an toàn, phi cơ cuối là chiếc L 19 làm nhiệm vụ quan sát cũng chào bãi chúng tôi rồi đi về, khi núi rừng sẫm màu hoàng hôn chúng tôi bắt đầu ăn pháo, một trận pháo “chào đón” ra trò, pháo vòng cầu, pháo trực xạ nổ như rang bắp, hầm hố chưa đào sâu, thiệt hại lớn, không quân hẹn tối mới có phi cơ soi sáng, tôi ngạc nhiên vì chuyện này ,nhưng bây giờ “ngộ” ra lúc đó xăng và đạn dược tiếp cho quân đội rất cầm chừng, rất hạn chế…, số phận chúng tôi đã được “ngả giá” bởi những “bàn tay lông lá”, tội nghiệp chúng tôi, những kẻ ra sân đấu mà bị trói tay, chỉ có đôi chân để ” CHẠY LÀNG", để “di-tản chiến-thuật”.
Tổng thống Thiệu đã nói như muốn khóc: làm sao đánh lại cộng sản, họ tiêu tốn cho phương tiện chiến tranh bằng cả núi vũ khí tối tân, của Nga Sô, Trung Cộng, xăng dầu của Việt Cộng chảy tới Tây Ninh… còn quân đội Cộng Hòa chúng tôi chỉ với vài đô la lẻ, làm sao…Có sức mạnh để đánh giặc để làm nhiệm vụ tiền đồn cho vùng Đông Nam Á, trong hội nghị “thượng đỉnh” ở Honolulu lần chót vào năm 1973. Ông đâu hay được “đồng-minh” đã bán đứng ông và một quân-đội còn non trẻ ấy, lại nữa người Mỹ, công dân Mỹ họ có quyền “lên giọng ” với tổng thống của họ nhất là chẳng bao lâu nữa là bầu cử tổng thống, T.T. Thiệu đâu nghĩ tới điều: vì quá dân chủ nên dân Mỹ họ rất “dị-ứng” với hình ảnh con em,chồng cha họ lủi thủi xếp hàng lãnh cơm ở nhà tù “khách sạn Hillton” Hà Nội, họ muốn con em họ trở về ngay tức khắc, một lợi thế rất thuận cho “bên kia”, chúng tôi ở vào hoàn cảnh cùng trên một con tàu không có bản đồ,hải bàn , thuyền trưởng tuyệt vọng vì hải-trình còn xa mà nhiên liệu thì cạn kiệt …
Lãnh pháo liên tục 2 ngày đêm, chiều ngày sau đột nhiên ngưng pháo. suốt 48 giờ căng thẳng chúng tôi mệt nhoài, mắt như có ai kéo lại , ai cũng ngủ như chưa bao giờ được ngủ…
Chúng tôi chợt tỉnh trong tiếng kèn thúc quân của địch, những lằn đạn AK xanh lè quét sát chúng tôi, bộ binh đối phương đông như kiến. Tôi nghe nói “tấn công biển người ” đã lâu, nay được chứng kiến, tham chiến thì đúng hơn, tôi cầm cây M 16 của người lính trinh sát bảo vệ cho BCH/Tiểu-đoàn đã gục chết; qua lổ châu mai lố nhố những chiếc mũ cối, địch tiến gần lắm rồi. Tôi chụp handset của máy PRC 25, người lính hỏi tôi: trung úy kêu chỗ nào, chỉ còn cái này đang liên lạc với thằng 1 (đại đội 1), Thiếu Tá T.Đ.Trưởng và trưởng ban 3 tai bị ù vì góc hầm bị sập do pháo đối phương. Tôi bảo: cậu qua tần số liên đoàn; tôi nghe giọng sĩ quan trực ban 3 liên đoàn tỉnh rụi: tụi nó ghẹo sơ đó mà … tôi đòi cho gặp Alpha (liên đoàn trưởng ), tôi biết sĩ quan trực liên đoàn không đánh giá được tình hình chính xác, tôi nói luôn, anh trình alpha cho pháo hay phi tuần đánh ngay lên đầu chúng tôi.
– Bộ tới mức này sao. Ráng đi để tui cho pháo chớ fighter giờ này chắc gì có. Ráng cầm cự.
– Tụi tôi hết tiền (đạn) rồi làm sao “tố” được .
– Cũng không có pháo, chúng tôi bắt đầu cận chiến, khẩu colt 45 của tôi còn 1 băng với 6 viên đạn đã lên nòng.
– Tôi nghĩ không thoát ra hầm sẽ chết chùm vì khi áp sát được, địch sẽ đánh lựu đạn hoặc bộc phá, chúng tôi lao ra, tôi cũng quét 1 băng M 16 và cùng tụt con dốc xuống chân đồi theo 1 hướng không thể có chọn lựa nào khác hơn, địch dành cho chúng tôi con đường này và cái giá chúng tôi phải trả cũng quá đắt, toán lính truyền tin và tiểu đội trinh sát còn được 6 người kể cả tôi, với vài cây súng, một máy Prc 25, không còn đơn vị nào trong hệ thống liên lạc, tôi biết “thiệt hại ” là rất lớn, tôi nhắm hướng, cho Kpui-Thup một hạ sĩ tr/tin rất to con, mở lối, rừng rậm không thấy mặt trời, chúng tôi theo hướng địa bàn đi về chi khu Thanh An, sang ngày thứ 2 chạm súng với 1 tổ du kích mà thoạt đầu tôi cứ tưởng quân bạn vì địch che mấy khẩu AK quá kỹ, khi họ lia 1 băng AK 47 về phía chúng tôi làm cho một người lính Biệt-Động trong toán chết ngay tại chỗ, lần đầu trong cuộc đời tôi phải quyết định một chuyện: để lại tử sĩ trên đường rút lui, không có cuốc xẻng để chôn, không thể mang thi hài theo vì chính tôi cũng chưa biết sẽ đưa được toán tới chi khu Thanh-An hay không, qua các làng dân tộc hầu hết là vùng kiểm soát của “bên kia”, súng đạn và quân số địch rất dồi dào … , cứ chạm thì né, ngày thứ 3 mọi người bủn rủn vì đói , chúng tôi đâu có ý định “di-tản” nên tất cả quân lương vẫn còn trong các ụ chiến đấu, tôi bảo Thup trèo lên cây cao coi có làng nào để tìm đồ lót dạ, định hướng xong chúng tôi đi trong cái đói cồn cào, mắt thường bị hoa lên, vậy mà tới xế chiều mới tới 1 làng nhỏ, gọi là làng nhưng thực ra chỉ có chừng 5 cái nhà sàn bé tí, sau khi đã quan sát kỹ, tiến vô làng có 2 bà cụ già người Thượng đang vắt khoai mì thành nắm [có khi họ tiếp tế cho du kích ] tôi cho tản ra, Thup là người “đồng hương“ tiếp xúc thương lượng, còn tiền trong túi tôi móc ra trả, bảo Thup “thông dịch” và gói lẹ chỗ khoai mì thành 5 gói, có lẽ chưa lần nào được ăn ngon như vậy, trên đường đi chúng tôi nghe tiếng máy bay L 19, tôi dò mọi tần số để kêu giúp đỡ nhưng vô vọng, buổi chiều lại “chạm” nhỏ với du kích, cũng may vô sự. 2 ngày sau chúng tôi tới được chi khu Thanh An, tôi được đại tá Võ Hữu Hạnh chỉ huy trung đoàn 53 /Sư Đoàn 23 BB chuẩn bị tiếp cứu cho Đức Cơ; ông đãi tôi bữa cơm chiều sau khi nghe tôi “tường thuật di tản” khỏi Đức Cơ cho ông nhà văn mang lon Đại Tá.
Đơn vị tôi thay chỉ huy mới: Đại-Úy Nguyễn Ngọc Lân, ông về thay cho Thiếu Tá Nguyễn Đỗ Tước nhận nhiệm vụ mới, thời gian này khu vực căn cứ Pleime im ắng một cách bình an, thường cứ có “dấu lặng” là sẽ có “màn” mới .
Không bao lâu chúng tôi lại được thay Tiểu Đoàn Trưởng mới : Thiếu Tá Vương Mộng Long , vị chỉ huy trực tính, tài ba , kiên cường ( về điểm này tôi biết qua những anh em còn lại sau 1975 Họ kể cho tôi nghe lòng bất khuất của ông vào những giờ hấp hối của một quân đội, của một miền Nam,một trận để đời tại Xuân Lộc,Long Khánh, người Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân mà Thiếu Tướng Lê Minh Đảo trong nhiệm vụ chỉ huy có thẩm quyền cao nhất giữ phòng tuyến Xuân Lộc khâm phục…Có nhiều tank 54 của đối phương còn vết sơn “xịt” nơi pháo tháp : T.Đ 82 B.Đ.Q, nhưng giờ thứ 25 của vận mệnh một Quốc Gia quá oan nghiệt từ lệnh đầu hàng của một tên tướng nội tuyến cho địch , quân lực VNCH đã “nuôi ong tay áo” vài tên tướng như vậy …
Với riêng tôi trong trận 33 ngày đêm trấn giữ Pleime mà Tiểu Đoàn chúng tôi với quân số một “chọi” với mười đã chiến đấu trong tháng mưa dầm dề (hầu như sự yểm trợ của Không Quân bị hạn chế tối đa , hạn chế vì thời tiết , hạn chế vì ngân sách viện trợ cho Quân Đội bị cắt giảm tối đa ). Nếu không phải là Thiếu Tá Vương Mộng Long chỉ huy thì căn cứ Pleime có lẽ đã mang số phận khác, một số phận mà không người lính mũ nâu Biên Phòng nào mong muốn : di tản chiến thuật…Ông đã “làm bàn thắng” ngoạn mục , đưa Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân về sân vận động thị xã Pleiku để khao quân ,mừng chiến thắng do đồng bào và chính quyền thị xã Pleiku tổ chức đón tiếp.

 Vietnam War

In August 1967, 25 A-37As were deployed to Vietnam under the "Combat Dragon" evaluation program, and flew from Bien Hoa Air Base on USAF "air commando" missions, including close air supporthelicopter escort, FAC, and night interdiction.[10] Combat loads included high-explosive bombs, cluster munition dispensers, unguided rocket packs, napalm tanks, and the SUU-11/A Minigun pod.[3] For the majority of missions, the aircraft also carried two additional external fuel tanks on the inner stores pylons.

During this period, the A-37As flew thousands of sorties; none were lost to enemy fire, although two were wrecked in landing accidents. While the aircraft was formally named the "Dragonfly", many pilots called it the "Super Tweet". The Combat Dragon program was successful, but unsurprisingly the combat evaluation revealed some of the deficiencies of the A-37A.[11] The most noticeable problem was that the aircraft lacked range and endurance. Other concerns were heavy control response during attack runs (the flight controls were not power-boosted) and the vulnerability of the aircraft's non-redundant flight control system. Some pilots also criticised the machine gun as ineffective and negatively impacting the pilot's view.[12][13]

An OA-37 Dragonfly aircraft over Edwards AFB, California

The USAF signed a contract with Cessna in early 1967 for an improved Super Tweet, designated the "A-37B". The initial order was for 57 aircraft, but this was quickly increased to 127; the unit cost of these aircraft were roughly one quarter of the McDonnell Douglas F-4 Phantom II all-weather fighter aircraft.[14] The A-37Bs were primarily intended to be supplied to the Republic of Vietnam Air Force (RVNAF) as replacements for their A-1 Skyraiders. The A-37B prototype was rolled out in September 1967, with deliveries to the South Vietnamese beginning in 1968.

The A-37Bs were all newly built airframes that were considerably stronger than those of the A-37A, capable of pulling six g instead of five, and were built to have a longer fatigue life of 4,000 hours. Field experience would demonstrate that 7,000 hours between overhauls could be tolerated. The A-37B weighed almost twice as much as the T-37C; a remarkable fraction of the loaded weight, 5,800 lb (2,600 kg), could be external stores. In practice, the A-37B usually operated with at least two and sometimes four underwing fuel tanks to improve combat endurance. The A-37B added a refueling probe to the nose, leading to pipes wrapped around the lower lip of the canopy, for probe-and-drogue aerial refueling. This was an unusual fit for USAF aircraft, which traditionally are configured for boom refueling. Other improvements included updated avionics, a redesigned instrument panel to make the aircraft easier to fly from either seat, an automatic engine inlet de-icing system, and revised landing gear. Like its predecessors, the A-37B was not pressurized.

In order to accommodate the increased weight, the A-37B was powered by General Electric J85-GE-17A engines, providing 2,850 lbf (12.7 kN) thrust each. These engines were canted slightly outward and downward to improve single-engine handling.[15] Air commando pilots in Vietnam operating the A-37A had found single-engine cruise an effective means of improving their flight endurance. Modifications were made to control surfaces to improve handling. To improve aircraft and crew survivability, the A-37B was fitted with redundant elevator control runs that were placed as far apart as possible. The ejection seats were armored, the cockpit was lined with nylon flak curtains, and foam-filled self-sealing fuel tanks were installed. To extend endurance, pilots were authorized to fly the A-37 on only one active engine, an uncommon practice outside of emergency situations at that time.[9]

A-37B Minigun in nose compartment

The 20 mm (0.787 in) GPU-2/A and AMD 30 mm (1.18 in) cannon pods were tested with favorable results on the A-37B,[16] but reports indicate that such pods were either seldom or never used in operation.

The A-37 proved to excel at the close air support mission.[10] It was able to engage targets at speeds roughly 100 miles per hour slower than swept-wing fighters and by doing so improve its bombing accuracy; pilots were reportedly able to achieve an average accuracy of 45 feet (14 m). While the aircraft's slow speed was feared to make it more vulnerable to hostile ground fire, the A-37's relatively small size, atypical speeds, and relatively low altitudes combined to make it somewhat hard to effectively hit with gunfire.[10] The A-37 required a relatively low amount of maintenance compared to contemporary fighters—only two hours of maintenance for each hour of flight time, six times less than that of the McDonnell F-101 Voodoo; a feat was partially due to the convenient placement of multiple access panels at strategic locations.[17][18]

The A-37 did not typically attract attention from the media, unlike many other USAF combat aircraft used in the theatre; one reason for this was that the type was never flown into North Vietnam, where hostile air defenses were proved to be challenging, claiming to have downed almost 200 F-4s and 300 F-105s by the conflict's end. Instead, A-37s operated in the south, as well as in neighboring Laos and Cambodia, where it was typically used to support US ground forces.[9]

A total of 577 A-37Bs were constructed, 254 of which being delivered to the RVNAF. By the war's end, the A-37 had flown over 160,000 combat sorties, during which only 22 USAF aircraft were recorded as lost due to combat. The type remained active in the theatre right up until the Fall of Saigon, shortly prior to which efforts were made to retrieve as many as possible before they fell into North Vietnamese hands.[19] As a consequence of the North Vietnamese capture of Da Nang Air Base at the end of March 1975, their forces captured large amounts of stores and equipment, including 33 intact A-37s.[20][21] On 28 April 1975, several of these captured A-37s were used by the North Vietnamese to attack Tan Son Nhut Air Base, still held by the South Vietnamese.[22][23]