Wednesday, May 28, 2025

 TRẬN AN LÃO 7-9/12/1964

              



 
"Sau 1 tấn công bằng hơi cay của không quân và trực thăng, lính của sđ 1 không kỵ đã vào thung lũng An Lão bằng đường bộ. Ở đây họ đã bắt tù binh trẻ từ các bunker, chụp 29/8/1967". Theo kinh nghiệm, có lẽ họ thuộc dân Hre, chứ ko phải người VN, vì họ sống ở thung lũng này nhiều đời. Ảnh dưới: một lính Mỹ đang lục soát ở vùng An Lão.
   


Trận đánh bắt đầu bởi những tấn công phối hợp bởi quân CSBV và du kích VC khi chúng chiếm chi khu An Lão trong tỉnh Bình Định, khoảng 300 dặm đông bắc của SG. Trong ba ngày, lực lượng phối hợp này đã thành công khi đẩy lui những đợt phản công của quân nam VN. Đây là trận đánh ĐẦU TIÊN tại vùng phía bắc của Nam VN và Cao nguyên Trung phần vì quân csbv và VC "đã dùng chiến thuật mới khi phối hợp các lực lượng chánh quy với lực lượng địa phương và du kích." Trận đánh kết thúc với 150 lính csbv và VC chết, 300 lính VNCH chết và bị thương, và ba người Mỹ chết. Vì hành động dũng cảm khi cứu lính VN bị thương trong ngày đầu của trận đánh, đại úy Peter Coggins, phi công trực thăng của lục quân Mỹ, đã được trao huy chương Ngôi Sao Bạc của Mỹ và Anh dũng Bội tinh với Ngôi Sao Bạc của VNCH.

 Là một thành phần của thay đổi chiến lược của csbv (nhằm kết hợp quân csbv và du kích VC để tiến hành các cuộc tấn công phối hợp), trận An Lão đã bắt đầu vào sáng sớm của ngày 7/12/196, khi lực lượng CS tấn công một vị trí của quân VNCH trên một đỉnh đồi phía bắc của chi khu An Lão. Trận đánh đã kéo dài trong ba ngày. Phóng viên của hãng UPI đã mô tả cuộc tấn công này là một cột mốc (milestone) của VC, "một cuộc tấn công được dàn dựng kỹ lưỡng (set-piece attack) bởi du kích quân kể từ lúc bắt đầu của nội chiến này." (NÓI THÊM: sau trận An Lão là trận Bình Giả xảy ra vào cuối tháng 12/1964, cũng được dàn dựng kỹ lưỡng bởi quân chính quy Bắc Việt và du kích địa phương. Họ đã áp dụng chiến thuật công đồn đả viện bằng cách tấn công làng Bình Giả và rải quân chung quanh làng để phục kích các TĐ Biệt động quân, TQLC và thiết giáp -- ND). 

Quân CS đã bắt đầu nổ súng dữ dội vào quân đồn trú khoảng 50 lính ĐPQ và NQ tại An Lão, sau đó bao vây bằng súng không giựt và cối 81 ly. (Theo Wiki, có khoảng 100 quân tại BCK chi khu An Lão -- ND).

Vào năm 1964, nhiều trực thăng của Lục quân Mỹ thường ko võ trang. Thiết kế của UH-1 Huey gồm 13 chỗ ngồi, hay 4 hành khách với 6 băng-ca, nhưng chưa có xạ thủ . Hậu quả, trực thăng của phi công Coggins 31 tuổi đã ko võ trang khi ông đáp xuống 1 con đường ở trước quận lỵ để cứu các thương binh VNCH. Dù có hai gunship loại  UH-1 võ trang đại liên 7.62 ly và rocket, bay trên đầu, trực thăng của Coggins bị bắn dữ dội. Coggins kể cho phóng viên UPI," Ngay sau khi tiếp đất, một quả 60 ly nổ cách đuôi 30 feet về phía trái... khi chúng tôi chuẩn bị cất cánh, một quả khác ở cách mủi máy bay 90 feet." Coggins kể lại rằng y bay vòng trên khẩu cối của VC trong khi một sĩ quan VNCH cầu cứu qua máy, "Xin đáp xuống. Chúng tôi có nhiều thương binh." Coggins nói, "Tôi nghĩ (guess) rằng cảm xúc của chúng tôi đã vượt qua lý trí," và ông đã đáp xuống trở lại, lần này bên trong tiền đồn.

Tiền đồn đang bị tấn công dữ dội từ các đồi chung quanh và máy bay của ông đã trúng đạn nhiều lần. 

Lính VNCH ở tiền đồn này đang hoảng loạn và ko còn tổ chức, do vậy theo bản năng (instinctively) Coggins đã nắm quyền chỉ huy trong tình hình nguy kịch này trong lúc nhiều lính ào tới trực thăng để thoát khỏi vòng vây; ông nhớ lại, "Chúng tôi đã đáp xuống, và trời ơi là trời, 

Merveille et évasion

L'expression "c'était comme si les collines s'étaient ouvertes devant nous" est une expression métaphorique qui évoque un sentiment de merveille et d'évasion. Elle suggère que l'expérience est si spéciale et surnaturelle qu'elle donne l'impression que les collines elles-mêmes ont révélé un secret caché ou un chemin.

Lính VNCH được dìu tới hay mang trên vỏng (sling) hay mang trên cánh cửa... một số họ ko thực sự bị thương, do đó chúng tôi xô họ ra để có chỗ cho người bị thương nặng." Ông đã cất cánh khi 1 quả cối rơi gần, Coggins và phi hành đoàn đã tải thương 11 người.

Đêm đó bộ tư lịnh của Mắc-Vi (MACV, chỉ huy mọi hoạt động quân sự Mỹ tại Việt Nam - ND) đã loan tin VC đã tràn ngập tiền đồn trên đồi 193, đe dọa trực tiếp BCH của chi khu An Lão, và cố thủ trong khu vực để chiến đấu. Hai đ.đ. VNCH đã mất liên lạc. (NÓI THÊM: Theo các tài liệu của QK 5 của CS, họ đã dùng trung đoàn 2 bộ đội chủ lực, TĐ 409 đặc công (thuộc quân khu), một đ.đ. của tỉnh, 8 trung đội của các quận huyện và du kích các xã.

Quân VNCH có 884 người, gồm hai đ.đ. và hai trung đội bảo an, 12 trung đội dân vệ, 1 trung đội pháo cối và 1 trung đội biệt kích. Ngoài việc bảo vệ chi khu, quân VNCH còn đóng ở Núi Một, còn gọi là cao điểm 193, phía bắc cầu An Lão, án ngữ đường nối chi khu với phía tây bắc; Núi Mít ở Long Thạnh; và Suối Bà Nhỏ ở Hội Long. Dân quanh vùng ở trong 8 ấp chiến lược, mỗi ấp có 1 trung đội dân vệ. Tại núi một có 1 đ.đ. bảo an, một trung đội cối 106 ly, 1 trung đội biệt kích và 1 trung đội dân vệ.

Trưa hôm sau, ngày 8/12, một TĐ viện quân đã di chuyển bộ, "bảo vệ trước sau bởi thiết vận xa M-113." Trong lúc di chuyển trên con đường chật hẹp và uốn khúc giữa thung lũng An Lão, họ đã bị phục kích bởi csbv và vc từ những đồi chung quanh. Hỏa lực mạnh làm hư năm xe M-113, làm bị thương 1 cố vấn Mỹ và khiến chuyên viên bậc 5 William Hamlin mất tích.

Hamlin là một huấn luyện viên thiết giáp 25 tuổi, nhập ngũ 4 năm, thuộc toán cố vấn số 2, phục vụ tại trung đoàn 33. Hai ngày sau, 11/12/1964, xác ông được tìm thấy và nhận dạng. Ông đã chết vì chấn thương nặng và phỏng khắp người - do thiết vận xa bị cháy. Có lẽ (presumably), ông đã bị bỏ lại tại 1 trong 5 xe M-113 bị phá hủy.

Cũng ở toán cố vấn số 2 và cố vấn trung đoàn 33 là thiếu úy James G. Dunton. Dunton đã chết vì mảnh B-40 khi quân tấn công tràn ngập tiền đồn. Là một sĩ quan bộ binh có bằng BĐQ, ông đã nhập ngũ năm sau khi tốt nghiệp năm 1962 từ ĐH Harvard. Ông là con của chuẩn đô đốc hồi hưu Lewis Dunton Jr., và em song sinh của đ.u. hải quân hồi hưu Lewis Dunton III.

Binh nhứt Arthur Shelton 21 tuổi vào QĐ chưa tới 1 năm, nhưng đã tình nguyện đến VN năm 1964 như là một xạ thủ trực thăng. Đây là 1 chương trình huấn luyện Tối Mật, bắt đầu năm 1963, để huấn luyện binh sĩ làm xạ thủ. Vì lúc đó lính Mỹ sang VN để làm cố vấn, chứ ko phải chiến đấu. Chỉ đến năm 1965, các đ.đ. trực thăng của lục quân Mỹ được phép có xạ thủ, theo bản cấp số.

Chính thức, Shelton phục vụ cho sđ 25 bộ binh (Tia chớp Nhiệt đới) mà BTL đặt ở Hawaii, nhưng ngày 8/12, ông là xạ thủ trên 1 gunship của đ.đ. 119 trực thăng tấn công. Đ.đ. này và đ.đ. 117 trực thăng tấn công đã dùng 21 trực thăng để chở lính VNCH tái chiếm lãnh thổ đã bị VC chiếm ở thung lũng An Lão. Với yểm trợ của không quân VN, trực thăng của Shelton tấn công liên tục hai bên sườn của thung lũng An Lão, mà tình báo cho biết đầy VC. Một viên đạn 7.62 ly bắn từ dưới đất đã trúng Shelton, khiến ông đã chết trên đường tới Nha Trang.

NÓI THÊM: Theo hồi ký Trận An Lão và Đời bay Bổng của 1 phi công L-19 dự trận này thì bộ binh của trung đoàn 40 của sđ 22 bộ binh, có M-113 dẫn đầu, đã tiến rất chậm vì bị bắn trả dữ dội bằng B-40 và súng cối. Ông bèn bay rất thấp thì thấy chúng rất đông và ngụy trang kỹ lưỡng, nên đã dùng đạn khói để hướng dẫn Skyraider. Quân CS đã bị thiệt hại nặng... ND.

cuối cùng, vào ngày thứ ba của trận chiến, ba TĐ bộ binh, quân số khoảng 1000, đã có thể tái chiếm thung lũng an lão và quận lỵ. một tl cấp sđ của vnch cho biết chiến thắng này có được nhờ không quân mỹ. những cuộc ném bom dữ dội xuống một ngọn đồi từng khống chế chi khu, ám chỉ đồi 193. kế đó quân vnch, dưới yểm trợ phi pháo, đã tái chiếm đối này.

trong trận này, ngoài duntom, hamlin và shelton, còn có khoảng 300 lính vnch thương vong, và khoảng 700 dân làng tạm thời tản cư khỏi chiến địa. quân csbv đã xem trận đánh này là 1 chiến thắng, nhấn mạnh rằng bây giờ chiến lược của họ ở miền nam là "tấn công, tấn công, và chỉ có tấn công." Dưới quan điểm của bắc VN, trận an lão đã đánh dấu bắt đầu chính thức của chiến tranh việt nam. (NÓI THÊM: Trước trận này, chỉ có trận Ấp Bắc năm 1963 là trận lớn. Quân VN bị thiệt hại tái ấp bắc do thiếu tin tức tình báo, nên bị thiệt hại nặng. Chứ quân CS tại Ấp Bắc chỉ là du kích, trang bị yếu kém. Trong khi trận An Lão có tham dự của trung đoàn 2 bộ đội chủ lực, sau này là trung đoàn 2 của sđ Sao Vàng + một TĐ đặc công, và quân địa phương và du kích. Vào cuối tháng 12/64, xảy ra trận Bình Giã, cũng là quân chủ lực miền, trang bị hùng hậu, áp dụng chiến thuật công đồn đả viện; sang giữa năm 1965 là trận Đồng Xoài, cũng qui mô và chiến thuật như vậy khiến 1 TĐ của sđ 5 và TĐ 7 Dù gần như tan hàng, TĐ 52 BĐQ bị thiệt hại nặng. -- ND).

Vì các hành động dũng cảm dưới hỏa lực đối phương và di tản nhiều thương binh ngày 7/12, Coggins đã được trao huy chương Ngôi Sao Bạc của Mỹ và huy chương cao quí thứ nhì của VNCH -- Anh dũng Bội tinh với Ngôi Sao Bạc. Phi hành đoàn của Coggins gồm thiếu úy Pauls Hinds, trung sĩ Calvin Ross, và binh nhứt Mario Pizzi, mỗi người nhận Ngôi Sao Đồng, và anh dũng bội tinh với Ngôi Sao Bạc.

 

The Battle of An Lao, Dec 7-9, 1964

This map of South Vietnam includes the Binh Dinh Province and the cities of Bong Song and Qui Nhon in the II Corps tactical zone, from where reinforcements were air-assaulted, and to which helicopters evacuated casualties. SUMMARY:  The Battle of An Lao was initiated by offensive actions conducted jointly by North Vietnamese Army (NVA) forces and Viet Cong (VC) guerrillas when they captured the An Lao district headquarters in the coastal Binh Dinh province within the II Corps tactical zone, about 300 miles northeast of Saigon. For three days, this joint enemy force successfully repelled large numbers of counterattacking South Vietnamese Army (ARVN) troops. This battle was the first time in northern South Vietnam and the Central Highlands that the NVA and VC "used the new tactic of coordinating main force units with local and guerrilla forces." The battle resulted in 150 NVA and VC killed, 300 ARVN casualties, and deaths of three Americans. For his heroic actions while rescuing wounded Vietnamese soldiers on the first day of the battle, U.S. Army helicopter pilot, Captain Peter R. Coggins, earned both the Silver Star medal and the South Vietnamese Order of Gallantry with Silver Star.

FULL STORY:  As part of a North Vietnamese strategy change, which incorporated North Vietnamese Army and Viet Cong (VC) guerrilla units conducting joint offensive operations, the An Lao battle commenced early in the morning on December 7, 1964, when Communist forces attacked a South Vietnamese Army (ARVN) position on a hilltop north of the An Lao district headquarters.  The battle raged for three days. The United Press International (UPI) identified the offensive as a milestone for the VC, “the first set-piece attack launched by the guerrillas since the beginning of the current civil war.” The Communists poured harassing fire into An Lao’s little garrison of about 50 militiamen, which immediately reported it was surrounded and under heavy recoilless rifle and 81mm mortar fire.

In 1964, many U.S. Army helicopters routinely flew unarmed. The UH-1 Huey configuration designs accommodated 13 passenger seats, or 4 passengers with 6 litters installed, but adding door gunners was an afterthought. Consequently, 31-year-old Army Captain Peter Coggins’ helicopter was unarmed when he set down on a road in front of the garrison to rescue wounded ARVN soldiers. Despite two gunships overhead – UH-1 Huey helicopters armed with heavy machine guns and rockets – Coggins’ helicopter drew a rash of enemy fire. Coggins told the UPI, “We no sooner touched down than a 60mm mortar went off about 30 feet from our left tail. …as we started to move out, another one came in about 30 yards ahead of us.” Coggins recalled that he circled over the mortar fire as an ARVN commander pleaded by radio, “Please come in. We have many, many sick people.” Coggins surmised, “I guess our emotions got the better of us,” and he brought the Huey down again, this time inside the besieged outpost.

The outpost was receiving heavy enemy fire from the surrounding hills and his helicopter had sustained several hits. ARVN soldiers at the outpost were in a state of panic and disorganization, so Coggins instinctively took command of the critical situation as many soldiers rushed the Huey to flee the siege and recalled, “We landed, and good Lord, it was like the hills had opened upon us. [ARVN soldiers] were walking or in slings or carried on doors… some of them weren’t really wounded, so we had to throw them off and make room for the more serious ones.” He lifted off just as another mortar round landed inside the garrison. Coggins and his crew were able to evacuate 11 wounded men.

That night MACV headquarters reported the VC had overrun the command post on hill 193, were threatening An Lao’s subsector headquarters, and remained in the area to fight. Two ARVN companies were missing.

The following afternoon, on December 8, an ARVN battalion of reinforcements arrived on foot, “protected fore and aft by armored personnel carriers.” As the reinforcements snaked their way up the narrow An Lao valley road they were ambushed by NVA and VC attackers in the surrounding hills. Heavy weapons fire wrecked five of the armored vehicles, wounding one U.S. Army advisor and leaving another, Specialist 5 William R. Hamlin, missing.

Hamlin was a 25-year-old Armor Crewman instructor from Seattle, Washington. He had been in the Army four years, and was assigned to MACV’s Advisory Team 2, attached to the 33 ARVN Regiment. In the aftermath of the chaotic ambush, Hamlin was unaccounted for and the unit’s commander reported him missing in action. Two days after the battle, December 11, his body was recovered and identified. He had died as a result of massive trauma and extensive body burns suffered when the NVA/VC ambushed the unit of reinforcements. Presumably, he had been left behind inside one of the five destroyed armored personnel carriers.

Also assigned to Advisory Team 2 and advising the 33d ARVN Regiment 2 was U.S. Army First Lieutenant James G. Dunton.  Dunton was mortally wounded by shrapnel when attackers armed with grenade launchers overran the outpost. A Ranger-qualified infantry officer from Melrose, Massachusetts, he entered the Army following his 1962 graduation from Harvard University.  Dunton was the son of retired U.S. Navy Rear Admiral Lewis W. Dunton Jr., and twin brother of retired U.S. Navy Captain Lewis W. Dunton III. 

Private First Class Arthur A. Shelton was a 21-year-old infantryman from Loyalton, California. Shelton had been in the Army for less than a year, but he volunteered to go to Vietnam as a “shotgun rider,” which in 1964 was a competitive, Top Secret, 90-day temporary duty assignment in which infantrymen were trained as door gunners. The Shotgun program, begun in 1963, was Top Secret because of the sensitivity associated with having combat troops in Vietnam. At the time, the only troops in Vietnam the U.S. Government acknowledged were its “non-combatant” advisors. It was not until 1965 that Army helicopter companies were authorized door gunners as part of their Table of Organization and Equipment.

Officially, Shelton was assigned to the 25th Infantry Division in Hawaii, but on December 8, he was flying “shotgun” as a door gunner on a gunship with the 119th Assault Helicopter Company. The 119th and her sister helicopter company, the 117th AHC, had grouped together 21 helicopters to airlift ARVN troops to regain territory lost to the Communist attackers in the An Lao valley. Along with air support from the Vietnamese Air Force, Shelton’s helicopter repeatedly attacked the sides of the An Lao valley, said to be saturated with enemy. Tragedy struck when single a .30 caliber round from enemy ground fire struck Shelton. He died en route to the hospital at Nah Trang. 

Finally, on the third day of fighting, three battalions of ARVN reinforcements – perhaps 1,000 men – were able to retake control of the An Lao valley and the district headquarters. An ARVN division commander credited U.S. air power with saving the day. Intensive air attacks softened up the NVA and VC forces, bombarding An Lao from a hill overlooking the town. Then ARVN troops, under heavy fire, recaptured the hill.

During the Battle of An Lao, in addition to Dunton, Hamlin, and Shelton, there were roughly 300 ARVN casualties, and as many as 700 villagers were temporarily forced to abandon their homes. The North Vietnamese considered the assault a success, insisting in its aftermath that the strategy in the South was now “attack, attack, and only attack.” From a North Vietnamese perspective, the Battle of An Lao marked the official beginning of the Vietnam War.

For his gallant actions while under enemy fire and evacuating numerous ARVN soldiers on December 7, 1964, Coggins was awarded the U.S. military’s Silver Star medal and South Vietnam’s second-highest award for valor, the Order of Gallantry with Silver Star. Coggins’ crew, First Lieutenant Paul Hinds, Sergeant Calvin Ross, and Private First Class Mario Pizzi, each received a Bronze Star medal, and the Order of Gallantry with Bronze Star. Dunton, Hamlin, and Shelton were each posthumously awarded the Purple Heart medal. Shelton also earned two Air Medals, each one accounting for 25 hours of flying in combat. Dunton, Hamlin, and Shelton are memorialized on the Vietnam Veterans Memorial, panel 1E, lines 74 and 75.1


1Pierre Asselin, Hanoi's Road to the Vietnam War, 1954-1965 (Berkeley, CA: University of California Press, 2013), pp. 22 and 204-5; “U.S. Casualties in Vietnam Rise; Reds Fall Back in 3-Day Battle,” New York Times (AP), December 10, 1964, accessed www.nytimes.com/1964/12/10/archives/us-casualties-in-vietnam-rise-reds-fall-back-in-3-day-battle.html; “Pilot Decorated for Daring Rescue in Face of Red Fire,” and Department of the Army, General Orders No. 85 (December 15, 1969), “Peter Coggins Silver Star Recipient,” The Hall of Valor Project (Sightline Media Group), accessed December 7, 2020; “Command History, 1964,” Headquarters, Military Assistance Command, Vietnam, Appendix V, 193; The Coffelt Database of Vietnam Casualties (The Coffelt Group); “Melrose Rites Planned for Viet War Victim,” Boston Globe, December 17, 1964, p. 56; Bob Jones, “3 Schofield GIs Killed, 59 Hurt 'Riding Shotgun',” The Honolulu Advertiser, December 30, 1964, p. 4, https://www.newspapers.com/clip/15252737/19641230-ha-3-schofield-gis-killed/; Brock P. Mauldon and Thomas W. Wright, “The History of the 119th Aviation Company (Air Mobile Light) - 1964,” 52d Aviation Battalion, (U.S. Army Support Command, Vietnam, 1965), www.vhpa.org/unit/119AHC1964.pdf; John Stewart Bowman, The Vietnam War: An Almanac (New York, NY: World Almanac Pub, 1985), 100, accessed December 4, 2020.


Previous This Week in History Articles

 

2025

The U.S. Army Medal of Honor imageWeek of
May 17
In early 1969, the Vietnam War was rapidly changing. The 1968 Tet Offensive had shocked the American public, which increasingly demanded an end to the U.S. role in the conflict. At the same time, the number of Americans deployed to Southeast Asia was at its height. ...
The U.S. Navy Cross medalWeek of
May 10
The Que Son Valley was one of the keys to controlling the northern provinces of South Vietnam, and consequently became the location for numerous engagements between American and Communist troops. The valley was rural but highly populated, with dozens of villages scattered ...
Photo of a C-130 delivering supplies to a Marine Corps base in South Vietnam, circa late 1960s.Week of

 VIỆN TRỢ CỦA TQ SAU HIỆP ĐỊNH PARIS 1973.

Theo các lãnh tụ của Bắc Kinh, sau HĐ Paris, Hà Nội 'nên cần thời gian để nghỉ ngơi và xây dựng lực lượng' trong khi các nước Đông Dương khác như VN, Lào, và Cam-bốt 'nên xây dựng hòa bình, độc lập, và TRUNG LẬP' trong 5 tới 10 năm tới.  

...

"Cho dù đã có HĐ Paris 1973, Bắc Kinh đã tiếp tục cung cấp cho Hà Nôi viện trợ đáng kể. Trong năm 1974, viện trợ về kinh tế (KT) và quân sự (QS) cho Hà Nội là 2.5 tỉ nhân dân tệ (NDT)thêm 2 tỉ NDT, một mức độ khá cao cho Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, viết tắt theo tiếng Anh là PRG (thành lập ngày 6 tháng 6 1969). (NÓI THÊM: cũng theo tài liệu này, tháng 10.1969, TQ đã ký 2 thỏa thuận viện trợ 5 triệu đô cho Hà Nội và 10 triệu đô cho VC. TQ nói rõ rằng 5 triệu đô này dùng để mua 25.000 lương thực cho PRG mới thành lập ở miền Nam -- ND). Tình hình an ninh của TQ đã thay đổi, khi đe dọa của Mỹ đối với TQ từ VN đã giảm thiểu đáng kể, cũng như vậy những năm đối đầu (rivalry) với LX vì VN đã dừng lại. Bắc Kinh trông đợi một tình hình tương đối ổn định tại Đông Nam Á sau khi quân Mỹ ra đi. 

Đối với Bắc Kinh, ổn định tại Đông Dương thì quan trọng hơn cuộc chiến thống nhứt đang diễn ra của Hà Nội. Theo các lãnh tụ của Bắc Kinh, sau HĐ Paris, Hà Nội 'nên cần thời gian để nghỉ ngơi và xây dựng lực lượng' trong khi  các nước Đông Dương khác như VN, Lào, và Cam-bốt 'nên xây dựng hòa bình, độc lập, và TRUNG LẬP' trong 5 tới 10 năm tới. Các lãnh đạo Hà Nội đã nhận ra rằng 'chẳng bao lâu Bắc Kinh sẽ ko cấp tiền cho chánh nghĩa của VN'. Họ đành chấp nhận lời khuyên của Bắc Kinh khi hứa rằng Hà Nội sẽ ko đẩy mạnh việc thống nhứt vội vả đất nước, ý nói sát nhập 'Nam VN thành một thực thể XHCN'. Thái độ như vậy của ban lãnh đạo Hà Nội một mặt là để thỏa mãn đòi hỏi 'khoảng cách vừa phải' của Washington và một mặt cũng dùng lời hứa của họ để thu hút viện trợ lớn lao, trị giá 8.1 tỉ NDT, từ Bắc Kinh cho năm 1974. Các lãnh đạo TQ đã tin rằng yêu cầu này của Hà Nội ko thực tế, và cũng vượt quá khả năng của TQ. Cuối cùng, TQ chỉ đồng ý đồng ý cung cấp cho Hà Nội 2.5 tỉ NDT, ít hơn yêu cầu trước đây của Hà Nội. Việc này đã gây cho cho Hà Nội khó chịu và tổn thương đến quan hệ hai nước. 

Bắc Kinh đã định đối xử PRG là một thực thể chánh trị độc lập mà ko bao giờ nghĩ rằng sẽ có một VN thống nhứt trong 1 tương lai gần sau HĐ Paris 1973. Trước 1973, viện trợ của Bắc Kinh cho PRG luôn luôn được quản lý bởi Hà Nội. Kể từ 1973, Bắc Kinh đã xem viện trợ của Bắc Kinh cho PRG như là một chuyển khoản riêng biệt, nghĩa là ko bị kiểm soát bởi Hà Nội. Theo một viện trợ khẩn cấp và phụ trội ký bởi TQ và PRG ngày 19/7/73, mọi chuyển khoản sẽ đi trực tiếp từ Bộ Ngoại thương và Bộ Kinh tế TQ đến PRG. Hà Nội đã phản đối quyết định này của Bắc Kinh khi đối xử PRG là một thực thể độc lập. Trong một thỏa thuận sau đó, Bắc Kinh lại tiếp tục giúp cho PRG thông qua Hà Nội. Tuy nhiên, việc Bắc Kinh muốn giúp trực tiếp cho PRG đã đi ngược mục đích thống nhứt đất nước mà Hà Nội đang theo đuổi, dẫn đến sự bất hòa và thù địch sau này. 

Cuối cùng, quân viện của TQ cho VN đã giảm mạnh (plummet). So sánh với năm 1973, viện trợ trong năm 1974 và 1975 lần lượt là 70/100 và 60/100 (súng nhỏ), 75/100 và 50/100 (đạn dược), 64/100 và 49/100 (súng đại bác), và 62/100 và 43/100 (đạn đại bác). Trong năm 1974, TQ chỉ cấp cho VN 80 xe tăng và 606 máy bay, so với 120 xe tăng và 1210 máy bay của năm 1973. Đối với TQ, Chiến tranh VN đã hết, nhu cầu võ khí của Hà Nội nên giảm. Quan trọng hơn, nhiệt tình giúp đỡ Hà Nội đã nhanh chóng bay hơi (evaporate).

Các động thái quân sự của Hà Nội chẳng bao lâu đã phá vỡ (disrupt) hòa bình và ổn định mà các lãnh đạo TQ đã hy vọng được duy trì tại Đông Dương. Vào mùa hè 1974, quân CSBV đã tung 1 loạt tấn công thăm dò vào các vị trí của nam VN. Thái độ của TQ đối với viện trợ cho VN giờ đây ko còn nhiệt tình như trước. Ngày 3/8/1974, thủ tướng ốm yếu Chu Ân Lai đã gặp Lê thanh Nghị, phó chủ tịch của VN Dân chủ Cộng hòa, để thảo luận về viện trợ. Theo họ Chu, viện trợ cho VN gần bằng phân nửa ngoại viện của TQ. Sau khi viện trợ như vậy trong hơn hai thập kỷ, ông tin rằng đã đến lúc phải dừng lại (call it quits). Đó là một chuyển hướng đột ngột (startling turnabout) khi 1 năm trước đó, họ Chu đã cam kết với Lê Duẩn rằng viện trợ cho VN sẽ ko thay đổi trong 5 năm.

Thực tế, dù Chu nói như vậy, nhưng sau một thời gian ngắn, TQ đã tiếp tục viện trợ cho VN, nhưng ít hơn so với những năm trước. Ngày 26.10.1974, TQ và VN đã ký thỏa thuận giúp Hà Nội 850 triệu NDT về kinh tế và quân sự và 50 triệu đô tiền mặt cho năm 1975. Ngày 31/5/1975, sau khi Sài Gòn sụp đổ -- vào lúc mà Bắc Kinh đang đối phó những vấn đề kinh tế nghiêm trọng trong nước sau những năm đình trệ (stagnation) về nông nghiệp và kỹ nghệ -- Bắc kinh đồng ý giúp Hà Nội 21 triệu NDT. Nhưng vào tháng 8/1975, Bắc Kinh đã từ chối yêu cầu viện trợ của Hà Nội, khi nói rằng phe VNCH đã để lại "khối lượng lớn võ khí và đạn dược' và dẫn chứng (invoke) lịch sử chế độ Sài Gòn là nguồn võ khí cho CSVN tốt hơn là quân Tưởng cho ĐCSTQ trong Cuộc Nội chiến TQ. Đối với các lãnh đạo TQ, Hà Nội ko còn là 'nước nghèo nhứt trên thế gian này'; thay vào đó, chính TQ mới là nước nghèo nhứt với một 'dân số 800 triệu dân'. Sắp tới đây viện trợ phải đi kèm điều kiện. Do đó, ngày 25/9/1975, Bắc kinh hứa viện trợ 100 triệu NDT cho Hà Nội, nhưng phải hoàn trả, ko phải cho không (gratis sum) như trước, nghĩa là phải trả lại trong 10 năm, bắt đầu vào 1986. Dù Hà Nội tiếp tục kêu gọi viện trợ, ko có bằng chứng trong văn bản chính thức nói rằng sau đó có thêm các thỏa thuận viện trợ ký kết giữa hai nước.

KẾT LUẬN

Theo các hồ sơ chánh thức, TQ đã viện trợ tổng cộng trị giá trên 20.36 tỉ NDT, trong đó 1.4 tỉ NDT ko lấy lời, từ thập niên 1950 đến 1975. Cộng với số võ khí mà TQ giúp cho VN, tổng cộng viện trợ cho Hà Nội vượt quá 20 tỉ đô, tính theo hối xuất hiện thời. Viện trợ của TQ cho bắc VN rất lớn lao (substantial) khi nguồn lực quốc gia của TQ vẫn còn hạn chế. Quan trọng hơn nữa, với viện trợ này, chính phủ Hà Nội đã có thể dồn hết người và nguồn lực để trực tiếp đánh Mỹ tại miền nam, trong khi ít lo âu về một xâm lăng của Mỹ. Chẳng hạn năm 1964, QĐ nhân dân Việt Nam chỉ có 300 ngàn người, năm 1975 lên tới 1.2 triệu. Đóng góp của TQ cho chiến thắng cuối cùng của Hà Nội là ko thể phủ nhận (undeniable). Sử gia Chen Jian viết: ' Dù giúp đỡ của TQ ko đạt yêu cầu của Hà Nội, nếu ko có hỗ trợ này, lịch sử, ngay cả kết cục, của cuộc chiến, có thể sẽ khác'.

Tuy nhiên, viện trợ của TQ cho VN, ko thuần túy vị tha. Hai nước này đã ký vài thỏa thuận viện trợ mỗi năm. Số lượng và loại viện trợ được quyết định bởi TQ, có tính đến (in the light of) quyền lợi an ninh quốc gia và khả năng kỹ nghệ của TQ vào lúc đó. VN được xem như một thành phần sống còn của chiến lược của Mao; nó còn là một vùng đệm cho an ninh của TQ và một sự xác lập rằng TQ giữ vai trò lãnh đạo trong cách mạng thế giới. Sau khi nhận thức một đe dọa gia tăng từ Liên Xô, Mao đã tìm cách xích lại gần hơn với Mỹ, gây lo ngại cho Hà Nội. Vì bị Hà Nội phản đối, TQ đã gia tăng viện trợ cho Hà Nội để xác nhận sự giúp đỡ liên tục cho các cố gắng chiến tranh chống Mỹ của Hà Nội. Nhưng khi cần, TQ cũng giảm viện trợ để bày tỏ sự bất bình, khi Hà Nội tiếp cận với Mỹ về thương lượng hòa bình năm 1968-69 và họ Chu đã bày tỏ năm 1974.

Ngay cả dù Bắc kinh và Hà Nội cùng ý thức hệ, nhưng quyền lợi quốc gia của họ khác nhau. Từ quan điểm của TQ, viện trợ của TQ cho Hà Nội đã cung cấp cho Bắc Kinh một đòn bẩy về điều hành chiến tranh của Hà Nội. Nhưng ko có bằng chứng nói rằng viện trợ của TQ đã ảnh hưởng các quyết định về điều hành chiến tranh của Hà Nội. Thay vào đó, Hà Nội đã kéo léo thao túng (manipulate) quan hệ với Bắc Kinh để có nhiều viện trợ. Sau khi Mỹ rút quân khỏi VN và kế đó là sụp đổ của chế độ Sài Gòn, Hà Nội đã ko còn dấu những nghi ngờ (suspicious) từ lâu về lịch sử với TQ. Sau đó họ đã tạo ra những tranh chấp về lãnh thổ và ranh giới với TQ và một chiến dịch thanh lọc với người Hoa đang sống tại VN, để chẳng bao trở thành kẻ thù mới của TQ; năm 1979, hai nước đã chiến tranh. Nhìn lại quá khứ, viện trợ của TQ để giúp VN chống Mỹ đã tạo nên một sai lầm (blunder) ngoại giao lớn lao, có thể nói là thất bại lớn nhứt về chánh sách ngoại giao của TQ trong Chiến tranh Lạnh./.