NGAY TỪ NĂM 1969, BẮC KINH ĐÃ ƯU ĐÃI CHÁNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VN
- Theo các lãnh đạo của Bắc Kinh, sau HĐ Paris 1973, Hà Nội 'nên cần thời gian để nghỉ ngơi và xây dựng lực lượng' trong khi các nước Đông Dương khác như VN, Lào, và Cam-bốt 'nên xây dựng hòa bình, độc lập, và TRUNG LẬP' trong 5 tới 10 năm tới.
- Theo 1 thỏa thuận ký ngày 19/7/73, mọi chuyển khoản sẽ đi trực tiếp từ Bộ Ngoại thương của TQ đến Bộ Kinh tế và Tài chánh của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, viết tắt theo tiếng Anh là PRG.
Sau đây là phần chuyển ngữ.
...
"Cho dù đã có HĐ Paris 1973, Bắc Kinh vẫn tiếp tục cung cấp cho Hà Nội viện trợ đáng kể. Trong năm 1974, viện trợ về kinh tế (KT) và quân sự (QS) cho Hà Nội là 2.5 tỉ nhân dân tệ (NDT) cộng thêm 2 tỉ NDT, một mức độ khá cao cho Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN hay PRG (thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1969). (NÓI THÊM: cũng theo tài liệu này, vào tháng 10.1969, TQ đã ký 2 thỏa thuận viện trợ 10 triệu đô cho VC và 5 triệu đô cho Hà Nội; TQ còn nói rõ rằng 5 triệu đô này dùng để mua 25.000 tấn lương thực cho PRG mới thành lập ở miền Nam -- ND). Tình hình an ninh của TQ đã thay đổi, khi đe dọa của Mỹ đối với TQ từ VN đã giảm thiểu đáng kể, cũng như vậy những năm đối đầu (rivalry) với LX vì VN đã dừng lại. Bắc Kinh đã trông đợi một tình hình tương đối ổn định tại Đông Nam Á sau khi quân Mỹ ra đi.
Đối với Bắc Kinh, ổn định tại Đông Dương thì quan trọng hơn cuộc chiến thống nhứt đang diễn ra của Hà Nội. Theo các lãnh tụ của Bắc Kinh, sau HĐ Paris, Hà Nội 'nên cần thời gian để nghỉ ngơi và xây dựng lực lượng' trong khi các nước Đông Dương khác như VN, Lào, và Cam-bốt 'nên xây dựng hòa bình, độc lập, và TRUNG LẬP' trong 5 tới 10 năm tới. Các lãnh đạo Hà Nội đã nhận thức rằng 'chẳng bao lâu Bắc Kinh sẽ ko cấp tiền cho chánh nghĩa của VN'. Họ đành chấp nhận lời khuyên của Bắc Kinh khi hứa rằng Hà Nội sẽ ko đẩy mạnh việc vội vả thống nhứt đất nước, ý nói sát nhập 'Nam VN thành một thực thể XHCN'. Thái độ như vậy của ban lãnh đạo Hà Nội một mặt là để thỏa mãn đòi hỏi 'khoảng cách vừa phải' của Washington và một mặt cũng dùng lời hứa này nhằm thu hút viện trợ lớn lao, trị giá 8.1 tỉ NDT, từ Bắc Kinh cho năm 1974. Các lãnh đạo TQ đã tin rằng yêu cầu này của Hà Nội ko thực tế, và cũng vượt quá khả năng của TQ. Cuối cùng, TQ chỉ đồng ý đồng ý cung cấp cho Hà Nội 2.5 tỉ NDT, ít hơn yêu cầu trước đây (8.1 tỉ NDT) của Hà Nội. Việc này đã gây cho Hà Nội khó chịu và tổn thương đến quan hệ hai nước.
Bắc Kinh đã đối xử PRG là một thực thể chánh trị độc lập mà ko bao giờ nghĩ rằng sẽ có một VN thống nhứt trong 1 tương lai gần sau HĐ Paris 1973. Trước 1973, viện trợ của Bắc Kinh cho PRG luôn luôn được quản lý bởi Hà Nội. Kể từ 1973, Bắc Kinh đã xem viện trợ của Bắc Kinh cho PRG như là một chuyển khoản riêng biệt, nghĩa là không bị kiểm soát bởi Hà Nội. Theo một thỏa thuận viện trợ khẩn cấp và phụ trội ký bởi TQ và PRG ngày 19/7/73, mọi chuyển khoản sẽ đi trực tiếp từ Bộ Ngoại thương của TQ đến Bộ Kinh tế và Tái chánh của PRG. Hà Nội đã phản đối quyết định này của Bắc Kinh khi đối xử PRG là một thực thể độc lập. Trong những thỏa thuận sau đó, Bắc Kinh lại tiếp tục giúp cho PRG thông qua Hà Nội. Tuy nhiên, chính sách ưu đãi này của Bắc Kinh đối với PRG đã đi ngược mục đích chiến lược nhằm thống nhứt đất nước mà Hà Nội đang theo đuổi, dẫn đến sự bất hòa và thù địch sau này.
Cuối cùng, quân viện của TQ cho VN đã giảm mạnh (plummet). So sánh với năm 1973, viện trợ trong năm 1974 và 1975 lần lượt là 70/100 và 60/100 (súng nhỏ), 75/100 và 50/100 (đạn dược), 64/100 và 49/100 (súng đại bác), và 62/100 và 43/100 (đạn đại bác). Trong năm 1974, TQ chỉ cấp cho VN 80 xe tăng và 606 máy bay, so với 120 xe tăng và 1210 máy bay của năm 1973. Đối với TQ, Chiến tranh VN đã hết, nhu cầu võ khí của Hà Nội nên giảm. Quan trọng hơn, nhiệt tình giúp đỡ Hà Nội của Bắc Kinh đã nhanh chóng bay hơi (evaporate).
Các động thái quân sự của Hà Nội chẳng bao lâu đã phá vỡ (disrupt) hòa bình và ổn định mà các lãnh đạo TQ đã hy vọng được duy trì tại Đông Dương. Vào mùa hè 1974, quân CSBV đã tung 1 loạt tấn công thăm dò vào các vị trí của nam VN. Thái độ của TQ đối với viện trợ cho VN giờ đây ko còn nhiệt tình như trước. Ngày 3/8/1974, thủ tướng ốm yếu Chu Ân Lai đã gặp Lê thanh Nghị, phó chủ tịch của VN Dân chủ Cộng hòa, để thảo luận về viện trợ. Theo họ Chu, viện trợ cho VN gần bằng phân nửa ngoại viện của TQ. Sau khi viện trợ như vậy trong hơn hai thập kỷ, ông tin rằng đã đến lúc phải dừng lại (call it quits). Đó là một chuyển hướng đột ngột (startling turnabout) khi 1 năm trước đó, họ Chu đã cam kết với Lê Duẩn rằng viện trợ cho VN sẽ ko thay đổi trong 5 năm.
Thực tế, dù Chu nói như vậy, nhưng sau một thời gian ngắn, TQ đã tiếp tục viện trợ cho VN, nhưng ít hơn so với những năm trước. Ngày 26.10.1974, TQ và VN đã ký một thỏa thuận cuối cùng giúp Hà Nội 850 triệu NDT về kinh tế và quân sự và 50 triệu đô tiền mặt cho năm 1975. Ngày 31/5/1975, sau khi Sài Gòn sụp đổ -- vào lúc mà Bắc Kinh đang đối phó những vấn đề kinh tế nghiêm trọng trong nước sau những năm đình trệ (stagnation) về nông nghiệp và kỹ nghệ -- Bắc kinh đồng ý giúp Hà Nội 21 triệu NDT. Nhưng vào tháng 8/1975, Bắc Kinh đã từ chối yêu cầu thêm viện trợ từ Hà Nội, khi nói rằng phe VNCH đã để lại "một khối lượng lớn võ khí và đạn dược' và dẫn chứng (invoke) lịch sử rằng chế độ Sài Gòn là nguồn võ khí cho CSVN tốt hơn là quân Tưởng cho ĐCSTQ trong Cuộc Nội chiến TQ. Đối với các lãnh đạo TQ, Hà Nội ko còn là 'nước nghèo nhứt trên thế gian này'; thay vào đó, chính TQ mới là nước nghèo nhứt với một 'dân số 800 triệu dân'. Sắp tới đây viện trợ phải đi kèm điều kiện. Do đó, ngày 25/9/1975, Bắc kinh hứa viện trợ 100 triệu NDT cho Hà Nội, nhưng phải hoàn trả, ko phải cho không (gratis sum) như trước, nghĩa là phải trả lại trong 10 năm, bắt đầu vào 1986. Dù Hà Nội tiếp tục kêu gọi viện trợ, ko có bằng chứng trong văn bản chính thức nói rằng sau đó có thêm các thỏa thuận viện trợ ký kết giữa hai nước.
KẾT LUẬN
Theo các hồ sơ chánh thức, TQ đã viện trợ tổng cộng trị giá trên 20.36 tỉ NDT, trong đó 1.4 tỉ NDT ko lấy lời, từ thập niên 1950 đến 1975. Cộng với số võ khí mà TQ giúp cho VN, tổng cộng viện trợ cho Hà Nội vượt quá 20 tỉ đô, tính theo hối xuất hiện thời. Viện trợ của TQ cho bắc VN rất lớn lao (substantial) khi nguồn lực quốc gia của TQ vẫn còn hạn chế. Quan trọng hơn nữa, nhờ viện trợ này, chính phủ Hà Nội đã có thể dồn hết người và nguồn lực để trực tiếp đánh Mỹ tại miền nam, trong khi ít lo âu về một xâm lăng của Mỹ. Chẳng hạn năm 1964, QĐ nhân dân Việt Nam chỉ có 300 ngàn người, năm 1975 lên tới 1.2 triệu. Đóng góp của TQ cho chiến thắng cuối cùng của Hà Nội là ko thể phủ nhận (undeniable). Sử gia Chen Jian viết: ' Dù giúp đỡ của TQ ko đạt yêu cầu của Hà Nội, nếu ko có hỗ trợ này, lịch sử, ngay cả kết cục, của cuộc chiến, có thể sẽ khác'.
Tuy nhiên, viện trợ của TQ cho VN, ko thuần túy vị tha. Hai nước này đã ký vài thỏa thuận viện trợ mỗi năm. Số lượng và loại viện trợ được quyết định bởi TQ, có tính đến (in the light of) quyền lợi an ninh quốc gia và khả năng kỹ nghệ của TQ vào lúc đó. VN được xem như một thành phần sống còn của chiến lược của Mao; vì nó còn là một vùng đệm cho an ninh của TQ và một sự xác lập rằng TQ giữ vai trò lãnh đạo trong cách mạng thế giới. Sau khi nhận thức một đe dọa gia tăng từ Liên Xô, Mao đã tìm cách xích lại gần hơn với Mỹ, gây lo ngại cho Hà Nội. Vì bị Hà Nội phản đối, TQ đã gia tăng viện trợ cho Hà Nội để xác nhận sự giúp đỡ liên tục cho các cố gắng chiến tranh chống Mỹ của Hà Nội. Nhưng khi cần, TQ cũng giảm viện trợ để bày tỏ sự bất bình, khi Hà Nội tiếp cận với Mỹ về thương lượng hòa bình năm 1968-69 và khi họ Chu đã bày tỏ năm 1974.
Ngay cả dù Bắc kinh và Hà Nội cùng ý thức hệ, nhưng quyền lợi quốc gia của họ khác nhau. Từ quan điểm của TQ, viện trợ của TQ cho Hà Nội đã cung cấp cho Bắc Kinh một đòn bẩy về điều hành chiến tranh của Hà Nội. Nhưng ko có bằng chứng nói rằng viện trợ của TQ đã ảnh hưởng các quyết định về điều hành chiến tranh của Hà Nội. Thay vào đó, Hà Nội đã khéo léo thao túng (manipulate) quan hệ với Bắc Kinh để có nhiều viện trợ. Sau khi Mỹ rút quân khỏi VN và kế đó là sụp đổ của chế độ Sài Gòn, Hà Nội đã ko còn che dấu những nghi ngờ (suspicious) từ lâu về lịch sử với TQ. Sau đó họ đã tạo ra những tranh chấp về lãnh thổ và ranh giới với TQ và một chiến dịch thanh lọc với người Hoa đang sống tại VN, để chẳng bao trở thành kẻ thù mới của TQ; năm 1979, hai nước đã đánh nhau. Nhìn lại quá khứ, viện trợ của TQ để giúp VN chống Mỹ đã tạo nên một sai lầm (blunder) ngoại giao lớn lao, có thể nói là thất bại lớn nhứt về chánh sách ngoại giao của TQ trong Chiến tranh Lạnh./.
Chuyển ngữ từ nguồn: Reassessment of Beijing's economic and military aid to Hanoi's War, 1964-1975 (Đánh giá lại viện trợ kinh tế và quân sự của Bắc Kinh cho cuộc chiến của Hà Nội, 1964-1975) của Shao Xiao thuộc Ban Lịch sử, ĐH Tế Nam, tỉnh Quảng Đông; và Xiaoming Zhang, Ban Chiến lược, Học viện Chiến tranh Không quân, căn cứ không quân Maxwell bang Alabama.
San Jose ngày 30.5.2025
Tài Trần
No comments:
Post a Comment