XẠ THỦ ĐẠI LIÊN SỐNG SÓT NHỜ VĂN HÓA XA XƯA CỦA BỘ LẠC MÌNH
"Ernie Wensaut, 1 cựu xạ thủ đại liên của lục quân Mỹ của sđ 1 bộ binh, ra đời trong 1 gia đình thuộc bộ lạc Potawatomi, trên khu đất dành riêng (reservation) cho bộ lạc thuộc bang Wisconsin.
Ông nhớ lại, từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, mỗi năm đều có những nghi lễ bản địa tổ chức cho mỗi mùa đi qua.
Các nghi lễ thường bao gồm tiếng trống bập bùng với những điệu nhảy múa. Các thành viên bộ lạc thường dùng những nghi lễ này như một sự công bố cho di sản và tín ngưỡng của họ.
Wensaut có tên gọi là "Wimigo" theo phong tục bản địa.
"Các nghi lễ giúp chúng tôi nối kết với bộ lạc, và nguồn cội gia đình (family root) của chúng tôi," ông nói. "Mỗi gia đình có 1 cái trống dành riêng cho tổ tiên của họ."
Gia phả (family linage) của Wensaut kéo dài vài trăm năm, với thân nhân từng chiến đấu bên cạnh các nhân vật lịch sử của người Mỹ bản địa như Chim ưng Đen, một chiến binh tù trưởng của bộ lạc Sauk.
" Với dân tộc tôi, mỗi người đều nghĩ rằng nếu chúng tôi được kêu gọi chiến đấu cho xứ sở của chúng tôi (ý nói nước Mỹ), chúng tôi sẽ chiến đấu - ko cần biết đất nước của chúng tôi đã đối xử với chúng tôi như thế nào trong quá khứ," Wensaut nói. "Tôi hãnh diện đã chiến đấu cho đất nước mình."
Cũng nhờ văn hóa bản địa Mỹ, ông nói, đã giúp ông sống sót trong chiến tranh VN.
Nhập ngũ vào Lục quân từ 1966, ông biết sẽ đến VN chiến đấu. Trước khi ông rời, bộ lạc đã tổ chức 1 nghi lễ và tặng ông 1 túi đựng thuốc lá bằng da hoẵng (buckskin), xem hình, và cha ông nói, "Hãy mang nó, sẽ giúp con vượt qua khó khăn (it'll see you through).
Ông đã giữ túi này bên mình trong 1 năm chiến đấu ở VN, và trải qua nhiều lần suýt chết (close call) trong chiến đấu.
Trước khi rời Mỹ, ông yêu cầu bạn gái, Darlene, xem hình, chờ ông. Nàng đồng ý, và cặp đôi dự định đám cưới khi ông về.
Tháng 10/1966, Wensaut theo đv tới Chiến khu C, xem bản đồ, tại nam VN, một vùng núi rừng biên giới Cam-bốt, nổi tiếng vì một tập trung cao độ của đối phương ẩn nấp khắp nơi trong những khu rừng ko lối đi và đầm nước lầy lội (boggy swamp).
CHIẾN KHU ĐÁNH DẤU BẰNG VÒNG TRÒN XANH DƯƠNGÁC MỘNG TRONG RỪNG
Những người lính của sđ 1 bộ binh -- đôi khi được gọi là Anh Cả Đỏ (Big Red One), vì có số 1 màu đỏ trên lá cờ, xem hình -- ND. Họ thường tuần tiểu lúc gần trưa (around noon), khi mặt trời - như nhiệt độ - ở cao điểm. Trong rừng, nhiệt độ và ẩm ướt thường khoảng 100 độ F.
Lính mang tới 60 cân Anh, khoảng hơn 27 kí, quân trang quân dụng, riêng âm thoại viên (ATV) và xạ thủ đại liên, như Wensaut còn mang nặng hơn. (ATV mang máy ANPRC-25, nặng 23 cân hay 10.4 kí; nếu kèm phụ tùng và pin dự phòng, máy có thể nặng tới 40 cân hay 18.1 kí; còn xạ thủ ngoài khẩu M-60, nặng khoảng 10.4 kí, còn mang theo vài dây đạn. Theo tổ chức của QĐ Mỹ, TĐ trưởng tự mình mang ba-lô và M-16 -- ND). Sau 1 thời gian, bộ đồ trận láng cóng (crisp), màu olive của họ bắt đầu phai màu và thường đẫm mồ hôi (sopping wet from sweat).
Dù nhiều người lính Mỹ chỉ mới chiến đấu vài tuần, ông nói. (Nói thêm: trong khi bộ đội VC hay CSBV, họ đi lính tới chết hay khi hết chiến tranh, riêng sq của họ có người đi lính trước 1954 như các tướng Hoàng Minh Thảo, Nguyễn Hữu An, v.v..., do đó họ dày dạn kinh nghiệm -- ND). Nhưng chẳng bao lâu người lính đối diện nguy hiểm -- cũng như sốc nhiệt, muổi mòng, vắt đỉa, mất nước, và mệt mỏi.
Đối phương có thể chỉ cách họ vài mét, hoàn toàn che khuất bởi lá cây rừng, ông nói. Rất khó cho toán tuần tiểu của ông thấy kẻ thù. VC cũng dùng những đường hầm phức tạp để đi lại, và các loại bẫy khác nhau, như chông có tẩm chất độc (punji), xem hình -- để chống lính Mỹ.
Khi tuần tiểu, người lính luôn luôn ko dùng đường mòn. Có nghĩa họ phải dùng dao rựa và vất vả (tediously) phát cây rừng rậm rạp.
Cho tới 1 ngày, khi trung úy của họ -- mới ra trường -- để tiết kiệm thời gian, đã dùng 1 đường tắt dọc theo đường mòn.
Ông này mới đến VN vài tuần, như Wensaut.
Dù Wensaut nghi ngờ, ông vẫn theo lịnh. Lúc đầu khu rừng im lặng, trừ tiếng ồm ồm của nhái và tiếng líu lo của chim văng vẳng từ xa.
Tuy nhiên, khi lính tới 1 ngã ba (fork) trên đường mòn ... ác mộng đã bắt đầu, ông nói. Đạn liên thanh bắn ra từ mọi phía.
Đúng là điều ông đã lo sợ -- họ đã sập bẫy. Vài người lính, đi đầu của toán, đã chết lập tức. Những kẻ khác ngả xuống, nhăn nhó với vết thương.
"Tôi ko biết có bao nhiêu VC ở đây", Wensaut nói. "Mọi việc xảy ra trong giây lát."
Gần như phản xạ, lính Mỹ đã bắn bừa bải vào rừng, ông nói. Họ đã ko thấy kẻ thù, và trở thành mục tiêu cho đối phương. Ông đã ném rất nhiều lựu đạn, hy vọng họ sẽ ko thể tới gần.
VC -- nói rất ít tiếng Anh -- đã chế giễu (taunt) lính Mỹ, ông nói. Từ mọi hướng, họ vừa cười vừa cùng đồng ca, "Tonight GI, you die! (Lính Mỹ sẽ chết tối nay), và bao vây con mồi.
Suốt trận đánh, ông nghe vị trung úy non-choẹt (fresh-faced) cầu cứu qua máy truyền tin. Tay của trung úy đầy thương tích và gần như bị cắt cụt, nhưng trung úy vẫn có thể gọi cứu thương.
Trong khi đó, Wensaut và một phụ xạ thủ khác, binh nhứt Regan -- chăm sóc thương binh (triage mode).
Hai người kéo 1 trung sĩ bị thương, đạn xuyên ngực, về phía sau và dấu y trong bụi rậm.
Ở đó, họ bắt đầu băng bó (patch) cho vị hạ sq này. Dù được băng bó, trung sĩ cần tản thương.
Một lát sau, 1 trực thăng tải thương, bay ầm ỉ (whir) trên ngọn cây. Y tá của trực thăng thả rổ cứu cấp để đưa người chết và bị thương lên máy bay. Dù được đánh dấu rõ ràng bằng chữ thập đỏ trên nền trắng, nhưng trực thăng vẫn bị bắn.
Ở giữa sự hỗn loạn này, Wensaut nhớ lại, ông nhìn lên trời và cầu nguyện,"Đừng để tôi chết ở đây." Vì ông ko muốn Darlene trở thành quả phụ.
Sau khi tản thương thất bại, trung úy gọi không kích. Trên trời, phản lực cơ chiến đấu gầm thét. Họ trải thảm khu vực bằng bom với những chùm giống con bướm.
"Giống như pháo nổ mọi nơi", Wensaut nay. Dù bị bom chùm, đối phương vẫn lì lợm cố thủ nhờ cây rừng che phủ, Và chỉ 1 lát sau, máy bay khác xuất hiện. Mắc kẹt giữa hỏa lực kẻ thù và không kích, lính Mỹ chỉ có cách nằm mẹp xuống (hunker down) một bờ mương.
Các phản lực cơ gầm thét xuyên đám mây và lao vút (swoop down) xuống chiến trường. Từ những máy bay này, một loạt 10 quả bom xăng-đặc được ném ra. Mỗi quả tạo ra đám lửa, nóng như hỏa ngục, cao khỏi cây rừng.
Trong khi bom xăng đặc nướng chín (sear) cây rừng, một loạt F-16 xuất hiện để hoàn tất công việc. Chúng rảy đạn từ đại bác nhiều nòng với tốc độ nhanh như chớp. Sau đó mọi sự trở nên im lặng. (Nói thêm: Thời đó chưa có F-16, chỉ có Skyraider A1-H, F-4 Phantom, F-100 Super Sabre, F-105 Thunderchief, hay F-8 Skyhawk, v.v... Chiếc F-16 sản xuất bởi hãng General Dynamics tại Fort Worth, Texas vào cuối 1975. Chiếc đầu tiên F-16A xuất xưởng ngày 20/10/1976 và bay đầu tiên ngày 8/12/1976. Mẩu đầu tiên 2-chỗ ngồi bay đầu tiên ngày 8/8/1977. Sản xuất hàng loạt F-16A bắt đầu vào 7/1/1978 và bàn giao cho không quân ngày 6/1/1979. Bắt đầu phục vụ ở không đoàn 388 chiến thuật ở căn cứ Hill tại Utah ngày 1/10/1980 -- ND)
Sau khi im tiếng súng, người chết và bị thương được chở đi. Chỉ có ba xạ thủ đại liên, bao gồm Wensaut thì vô sự (unscathed).
" Mọi người đều sợ chết, nhưng sau vài trận, họ bắt đầu dạn dĩ hơn", ông nói.
"Điều thật sự tác động tôi là những đồng đội. Tôi đã chia ngọt sẻ bùi với họ, nhưng tuần tới họ tử trận."
Như mọi người trông đợi, các chiến sĩ mới -- dễ nhận ra với đồ trận láng cóng -- đến đv để thay thế những kẻ đã chết vào ngày đó trên đường mòn.
Trong 11 tháng sau, Wensaut đã dự nhiều nhiệm vụ lùng và diệt khắp chiến khu C.
Ông đã dự HQ Cedar Falls và Shenandoah, nhưng thừa nhận, "Tôi ko nhớ hết những trận mà tôi dự, nhưng sđ 1 bộ binh đi tới đâu là tôi có mặt ở đó./."
Nguồn: Native American, Vietnam gunner lives by warrior culture
SJ ngày 17/6/25.
No comments:
Post a Comment