Tuesday, October 3, 2023

 Tỉnh Bình Thuận: Khu KTM Đức Linh, Mồ Chôn Tập Thể Dân Phan Thiết

28/11/200500:00:00(Xem: 5566)
Mường Giang
- (Viết nhớ đồng đội và đồng bào Phan Thiết-Bình Thuận đã chết thảm tại Trại cải tạo Huy Khiêm và Kinh tế mới Đức Linh.)
Hơn ba thế kỷ thăng trầm, một vùng đất rộng mông mênh lần lượt bị cắt chia, tan hợp. Rốt cục Bình Thuận trước sau gì cũng vẫn là Bình Thuận, cũng cát, gió, tháp Chàm, những con sông mùa nắng cạn nước và biển xanh sóng dậy ven bờ Mọi người bảo Bình Thuận là đất vua ở, vì nơi đây có Lạc Trị, Hâu Quách, Tịnh Mỹ, Phố Hải, Ma Lâm Chàm.. còn lưu dấu đầy bia ký, lăng mộ, cùng nhiều kỷ vật thời xưa của các vị tiên vương Chiêm quốc, đó là chưa kể Phố Hải từng là nơi phát tích của thị tộc Cau Kramucavamca ở phương nam vào thế kỷ thứ VI sau Tây Lịch, mà di tích còn sót lại tới ngày nay là hai tháp Chàm trên đồi Ngọc Lâm.
Mọi người cũng bảo Bình Thuận là đường vua đi vì khắp nơi từ Bảo Sơn tự ở Tuy Phong vào tới Bửu Sơn tự trên núi Cố,ra tới đảo Phú Quý, đều có vết chân của chúa Nguyễn Ánh trong thời gian tẩu quốc. Bình Thuận là nơi Nguyễn tất Thành trong lúc bị dồn vào đường cùng vì cha là Nguyễn sinh Sắc bị bãi chức tri huyện Bình Khê, Bình Định do uống ruợu say đánh chết người, nên Thành phải tìm đường mưu sinh và được vào dạy học tại trường Dục Thanh Phan Thiết. Bình Thuận là nơi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng làm quan hai lần, Tri Phủ Hoà Đa và Tuần Vũ Bình Thuận. Ninh Chử, Phan Rang, trước khi tách ra tỉnh Ninh Thuận, cũng thuộc đất Bình Thuận cổ, là sinh quán của cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu.
Tất cả những người đã đặt chân qua Bình Thuận như Nguyễn Ánh, Nguyễn tất Thành, Ngô Đình Diệm và Nguyễn văn Thiệu về sau đều làm Vua, Chủ tịch, Tổng Thống. Ngày nay nhắc tới vua Gia Long Nguyễn Ánh, người Bình Thuận hoài niệm về những công trình dựng và mở nước Việt, trong đó có đất Thuận Thành, và những quốc tự khắp nơi trong tỉnh, qua những cai tên trang trọng ý nghĩa được Ngài sắc tứ ban tặng.
Ngày nay nhắc tới Hồ chí Minh - Nguyễn tất Thành, ngoại trừ phe đảng và VC, thử hỏi có ai muốn nhắc tới trường Dục Thanh bởi vì những chứng tích của nó làm nát hồn mọi người khi đau lòng nhớ lại nỗi đời dâu biển, thế thái nhân tình của những tên ăn chén đá bát Việt gian Bình Thuận Thôi thì cứ quên để khỏi nhớ thêm hổ thẹn trăm chiều trước nỗi vẽ rắn thêm chân, chỉ hươu nói ngựa.
Ngày nay nhắc tới Ngô Đình Diệm, người Bình Thuận lại nhớ tới những xóm làng thôn ấp mọc lên từ các vùng lau sậy hoang vu, những nơi có thần cây đa ma cây gáo, những đồi hoang biển vắng khắp Phan Thiết, La Gi, Đức Linh , Sông Mao, Thanh Hải.. nhưng kỹ niệm ấm lòng nhất của người quá cố, là câu chuyện của hai người bạn tri kỷ, tri tâm: Ngô Đình Diệm - Hoàng Tỷ, trong những ngày cuối năm, ông Tổng Thống của một nước đứng trước mồ cố nhân, sụt sùi kể lễ, nhắc nhớ tâm tình. Và cuối cùng, ngày nay nhắc nhở tới Nguyễn văn Thiệu, người Bình Thuận thường nhắc tới một giai đoạn lịch sử thăng trầm, trong đó có một khoảng thời gian ngắn ngủi từ 1967-1975, khi người làm Tổng Thống, ít ra người dân xứ biển cũng được no cơm ấm áo trong cảnh hạnh phúc thanh bình.
Hỡi ôi Bình Thuận là bãi chiến trường ba trăm năm cũ, người đến người đi dấy lên rồi tàn lụn, xô nghiêng hay tạo dựng sông núi để được tiếng đời là minh quân hay bạo chúa, thì nay đổi đời đã rỏ, dù sử sách hôm nay hay ngày mai ghi không hết kịp, thì đã có bia đời, bia miệng như người Bình Thuận đã ghi những chuyện Việt Minh, Tây Tà qua suốt bao năm. Ngày nay khách phương xa tới chơi Bình Thuận, nơi từng là đất vua ở, đường vua đi, vào giữa độ xuân về hay trong các mùa lễ hội, không có gì thích thú cho bằng leo lên chiếc xe ngựa cũ kỷ hiện vẫn còn chạy đầy Phan Thiết. Bởi vì chỉ có trong khoãng không gian này, rất có thể giữa tiếng vó ngựa lộp cộp xen lẫn tiếng lục lạc len keng, bác xà ích sẽ kể cho mọi người nghe những giai thoại thật đẹp của miền biển mặn mấy mươi năm về trước và sự đổi thay của mấy mươi năm về sau, nhưng sau trước gì thì Bình Thuận cũng vẫn là chốn thân quen của mọi người , với những buồn vui, nhất là những năm tháng bị đoạ đày trên núi rừng ma thiêng nước độc, mà VC gọi là Kinh tế mới. Đời đã khác đi nhiều nhưng vẫn là cái nền mờ tỏ của bao đời tạo dựng, cho nên đâu có ai xóa được "
1- KINH TẾ MỚI ĐỨC LINH, MỒ CHÔN TẬP THỂ NGƯỜI PHAN THIẾT
Tháng bảy ở Phan Thiết, trời hay hờn dỗi nên cứ trút mau những cơn mưa ngày thật buồn. Phường phố quẩn quanh nhỏ nhoi thêm ngụp lặn dưới màn nước xám mù mịt nên càng tiêu điều, tĩnh mịch. Mấy hàng phượng vỹ ven đường, hoa đã rụng hết, chỉ còn trơ lại ít cụm lá hoang, co rúm ngả nghiêng với gió. Ve sầu rên khóc trong hốc cây, sóng vổ ỳ ầm xoáy mạn bờ sông Mường Mán, có tiếng người ca sĩ nào đó, từ chiếc loa khuếch thanh trên đỉnh lầu nước giữa vườn hoa độc lập, nức nở ngậm ngùi qua ca khúc 'đêm buồn tỉnh lẽ' của Tú Nhi, bất chợt khiến cho ta bâng khuâng héo hắt.
Nhưng buồn rầu mấy mấy rồi cũng qua khi trời dứt cơn gió mưa, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Người người rộn rịp, vui vẻ vì tháng bảy là thời điểm tốt nhất trong năm của dân Phan Thiết. Mùa cá nục, cá chim đã kết thúc sau sáu tháng vất vả vật lộn trên sóng nước. Ngư phủ giờ đây hoan hỉ với túi tiền rủng rỉnh được chia, tha hồ mua sắm. Thật vậy kể từ ngày Việt Nam Cộng Hòa có chương trình cải tiến nông ngư nghiệp, dân làm biển được vay tiền trả góp dài hạn, lãi suất thật nhẹ để đóng tàu, thuyền, mua thủy động cơ và ngư cụ, mà khỏi phải qua trung gian đầu cơ cắt cổ thuở xưa.
Nhờ cải cách này, đời sống của ngư dân được cải thiện, những túp lều tranh vách lá xiêu vẹo tồi tàn được thay thế bằng những căn nhà tôle vách gạch tuy cổ điển nhưng khang trang ấm cúng. Thuyền bè chạy bằng buồm cổ lỗ bị phế thải, nghìn trăm tàu đánh cá nhỏ, lớn đóng theo kiểu Thái Lan, gắn máy kéo Nhật, sơn phết lòe loẹt, san sát xuôi ngược trên sông, biển. Thanh niên nam nữ trong giới này đã biết hưởng thụ vật chất theo thành thị. Khu phố 6, 7, 8, 9 của phường Đức Thắng, dọc bến Ngư Ông, là một trong nhiều xóm làng kiểu mẫu, sau cơn đại hỏa hoạn năm 1956, nói lên sự thành công mỹ mãn của ngư dân.
Ven thị xã, đồng ruộng bát ngát đang ngút ngàn trổ hạt, hương lúa mới thoang thoảng bốc thơm trong gió, đó đây trai gái vui vẻ gặt hái. Lúa đầy kho, khoai sắn la liệt nằm phơi khắp sân, thêm vào đó có đàn heo con ủn ỉn bấu níu vú mẹ trong chuồng, là những món tiền đáng kể. Như ngư dân, nông gia cũng được hưởng chương trình trợ vốn trả góp của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp và Ty Nông Nghiệp, Ty Khuyến Nông.. để mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu rầy và nái giống. Riêng xi măng xây chuồng và thực phẩm dành cho gia súc, được cấp không. Sau ba tháng chăn nuôi, chỉ hoàn lại chính phủ ba con heo con mà thôi, nái được giữ lại. Quỷ phát triển của ngân hàng Á Châu bán máy cày, máy gặt trả góp, trâu bò nay bớt nhọc nhằn phần nào. Mái ngói đỏ chen chúc mọc, nhà nhà vang tiếng nhạc lời ca, phát ra từ chiếc máy thu thanh xinh xắn. Đời sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, với những mối tình chân mộc mạc.
Hoa quả chen chúc trên đất, gỗ quý bất tận chốn rừng hoang, cá tôm hải sản đầy sông biển với khí hậu quá điều hòa thích hợp. Phan Thiết - Bình Thuận đúng là miền đất hứa lý tưởng đời đời của mọi người, nếu không có cuộc chiến tranh trường kỳ do cộng sản quốc tế đề xướng. Rồi thì chiến tranh và máu người dân bất hạnh triền miên chảy suốt non sông, cơ hồ tưới xanh luống mạ. Mộ chí hoang vu lũ lượt chớm mọc khắp nơi, sang hồ, xừ sang, hồ sang xế.. tiếng đàn nhị hồ đưa đám não nuột như bất tận. Miền đất hứa biến thành vùng biển động, sự sống và nỗi chết không phân biệt ranh giới với thời gian, thấy đó chết đó vì mìn bẫy, bom đạn, pháo kích, ám sát và nạn đạn lạc, bắn lầm. Buồn ngồi nhai lại các bài hát thời thượng năm nào của cả hai phía, để thêm tức tủi, ngậm ngùi: 'đời ta thêm vui thắm tươi, vườn mộng xanh khắp nơi, hòa theo tiếng hát tươi vui, mừng thay chúng em nay sống nơi tự do.. là rế rế la phà, mì rề mì, mì mì rề rề rề la mí..' hay '.. bài phong kiến bốc lột, diệt thực dân, đem ấm no hạnh phúc..' Được sống sót trong đêm rã ngũ 18-4-1975 để đối mặt nhận diện bọn việt cộng nằm vùng hay a dua theo kẻ thắng trận, cờ lọng, đèn đóm, phủ phục hai bên vệ đường đón mừng giặc Hồ phương Bắc vào hoan hỉ với túi tiền rủng rỉnh được chia, tha hồ mua sắm. Thật vậy kể từ ngày Việt Nam Cộng Hòa có chương trình cải tiến nông ngư nghiệp, dân làm biển được vay tiền trả góp dài hạn, lãi suất thật nhẹ để đóng tàu, thuyền, mua thủy động cơ và ngư cụ, mà khỏi phải qua trung gian đầu cơ cắt cổ thuở xưa.
Nhờ cải cách này, đời sống của ngư dân được cải thiện, những túp lều tranh vách lá xiêu vẹo tồi tàn được thay thế bằng những căn nhà tôle vách gạch tuy cổ điển nhưng khang trang ấm cúng. Thuyền bè chạy bằng buồm cổ lỗ bị phế thải, nghìn trăm tàu đánh cá nhỏ, lớn đóng theo kiểu Thái Lan, gắn máy kéo Nhật, sơn phết lòe loẹt, san sát xuôi ngược trên sông, biển. Thanh niên nam nữ trong giới này đã biết hưởng thụ vật chất theo thành thị. Khu phố 6, 7, 8, 9 của phường Đức Thắng, dọc bến Ngư Ông, là một trong nhiều xóm làng kiểu mẫu, sau cơn đại hỏa hoạn năm 1956, nói lên sự thành công mỹ mãn của ngư dân.
Ven thị xã, đồng ruộng bát ngát đang ngút ngàn trổ hạt, hương lúa mới thoang thoảng bốc thơm trong gió, đó đây trai gái vui vẻ gặt hái. Lúa đầy kho, khoai sắn la liệt nằm phơi khắp sân, thêm vào đó có đàn heo con ủn ỉn bấu níu vú mẹ trong chuồng, là những món tiền đáng kể. Như ngư dân, nông gia cũng được hưởng chương trình trợ vốn trả góp của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp và Ty Nông Nghiệp, Ty Khuyến Nông.. để mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu rầy và nái giống. Riêng xi măng xây chuồng và thực phẩm dành cho gia súc, được cấp không. Sau ba tháng chăn nuôi, chỉ hoàn lại chính phủ ba con heo con mà thôi, nái được giữ lại. Quỷ phát triển của ngân hàng Á Châu bán máy cày, máy gặt trả góp, trâu bò nay bớt nhọc nhằn phần nào. Mái ngói đỏ chen chúc mọc, nhà nhà vang tiếng nhạc lời ca, phát ra từ chiếc máy thu thanh xinh xắn. Đời sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, với những mối tình chân mộc mạc.
Hoa quả chen chúc trên đất, gỗ quý bất tận chốn rừng hoang, cá tôm hải sản đầy sông biển với khí hậu quá điều hòa thích hợp. Phan Thiết - Bình Thuận đúng là miền đất hứa lý tưởng đời đời của mọi người, nếu không có cuộc chiến tranh trường kỳ do cộng sản quốc tế đề xướng. Rồi thì chiến tranh và máu người dân bất hạnh triền miên chảy suốt non sông, cơ hồ tưới xanh luống mạ. Mộ chí hoang vu lũ lượt chớm mọc khắp nơi, sang hồ, xừ sang, hồ sang xế.. tiếng đàn nhị hồ đưa đám não nuột như bất tận. Miền đất hứa biến thành vùng biển động, sự sống và nỗi chết không phân biệt ranh giới với thời gian, thấy đó chết đó vì mìn bẫy, bom đạn, pháo kích, ám sát và nạn đạn lạc, bắn lầm. Buồn ngồi nhai lại các bài hát thời thượng năm nào của cả hai phía, để thêm tức tủi, ngậm ngùi: 'đời ta thêm vui thắm tươi, vườn mộng xanh khắp nơi, hòa theo tiếng hát tươi vui, mừng thay chúng em nay sống nơi tự do.. là rế rế la phà, mì rề mì, mì mì rề rề rề la mí..' hay '.. bài phong kiến bốc lột, diệt thực dân, đem ấm no hạnh phúc..' Được sống sót trong đêm rã ngũ 18-4-1975 để đối mặt nhận diện bọn việt cộng nằm vùng hay a dua theo kẻ thắng trận, cờ lọng, đèn đóm, phủ phục hai bên vệ đường đón mừng giặc Hồ phương Bắc vào thành phố, có thấy cảnh xử giảo, có nghe tiếng rên xiết của hàng loạt nạn nhân quằn quại dưới trận đòn thù trong đêm tiếp thu và nhiều đêm liên tiếp, mới biết sự đổi đời rất có ý nghĩa, nhất là đối với đám âm binh 30-4, với những kẻ cầu an lừng khừng, với bọn trí thức không tưởng quen bóp méo sự thật, qua cái lăng kính, bất lương, bất bình thường..
Nụ cười hy vọng ngày nào đã tắt hẳn trên môi giới ngư dân, khi tàu thuyền đánh cá vào hợp doanh, chủ nhân là đảng. Song song nhà phố, cơ sở công thương nghiệp, rạp hát, bệnh viện tư, ruộng vườn, nông cơ, nông cụ cả trâu bò.. hoặc vào hợp tác, hoặc là tài sản xã hội chủ nghĩa. Dân làm chủ không, nhà nước, cán bộ đảng xử lý. Cơ cấu phường xã cũng lần lượt thay đổi, anh Chín bí thư, chị Ba phụ nữ mấy hôm đầu, sau đợt cướp ngày, kiếm được cái xe, căn lầu, vàng bạc đô la, lần lượt biến mất hay cũng chỉ như ta sống phất phơ bên lề thế sự, dù vẫn dép râu, nón cối, vai lũng lẳng cái xà cột cho oai.
Cán Bắc, công an răng thưa má hóp vùng Nghệ Tĩnh, thanh niên nam nữ cán bộ đảng chánh hiệu, đầy Bình Thuận, nhởn nhơ dòm ngó, vây bủa đồng bào kín hơn thiên la địa võng. Người Phan Thiết giờ phờ đi với gạo, dầu, phân bón, thuốc men, thức ăn và quần áo. Tay trắng hoàn tay trắng vì sản lượng chi tiêu quái ác. Đời sống văn minh của xã hội miền Nam như cái xe không phanh, vun vút tuộc dốc cầu Mường Mán, từ chết cho đến bị thương thê thảm. Nhiều mẹ Việt Cộng, nhất là miền đất thành đồng Đại Nẩm, Bình Lâm, Tường Phong.. uất ức tự tử vì biết dại, biết hối thì đã quá muộn màng trong cảnh trắng tay, chồng con thành liệt sĩ, còn gia đình thì nghèo đói mạt rệp. Thương ai cho bằng thương thân, những người còn chút phương tiện vội vã bồng bế nhau liều chết vượt biển tìm tự do. Rốt cục lãnh đủ vẫn là giới bần cố nông, vô sản, chỉ được đảng ban phát cho cái vỏ sơn phết, mà bụng thì trống rỗng hơn bao giờ hết vì bế tắc công ăn việc làm. Đói rách, bệnh tật và tuyệt vọng hằng hằng thường trực hành hạ họ.
Như cả nước, năm 1977 người Phan Thiết hoàn toàn sạch hết ngoài cái nhà trống bó buộc phải giữ để lây lất sống, giữa lúc cướp giựt bốc cao, Thuận Hải (Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy) được đảng ưu ái chọn làm thí điểm 101 'KINH TẾ MỚI'.
Phan Thiết hoang vắng như bãi tha ma, đường phố khắp nơi thay tên chất ngất. Những anh hùng liệt nữ dày công đối với xã tắc sơn hà như Nguyễn Hoàng, Lương ngọc Quyến, Huyền Trân Công Chúa, Trần quý Cáp.. được thay bằng những tên Trương Tam, Lý Tứ lạ hoắc, không biết đâu mà mò lý lịch, vì trong dòng sử Việt không hề nói tới. Các phố chính trước năm 1975 như Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thành, Gia Long, Đồng Khánh.. chỉ còn là cái bóng mờ với hằng loạt căn nhà bị niêm phong khép kín. Một vài tiệm buôn của người Hoa còn bị kẹt lại, chưa vượt biên hay đi nước ngoài bán công khai, co rúm sau cánh cửa sắt thu hẹp, buôn bán vặt vãnh chờ thời như chổi, dép râu, cờ đảng, ảnh 'bác'. Thầy giáo Thành, nay là cố chủ tịch nước có hình treo khắp nơi. Cờ đỏ, bảng vàng sơn phết, giăng mắc che kín mặt trời, làm vẩn đục không khí trong lành nơi miền biển mặn. Vườn hoa hoang phế, rạp hát bẩn thỉu vì phim ảnh VC và khối cộng sản tuyên truyền hạ cấp, rẻ tiền, ngày qua tháng lại với hình ảnh Điện biên Phủ, bắn máy bay Mỹ, Anh Trổi, chị Sáu.. Tòa Hành Chánh Bình Thuận cũng như các Ty sở, Tiểu Khu ngày xưa là nơi chốn khang trang lịch sự, nay thành chỗ sống chung hòa hợp, hòa giải, trung lập giữa Cán Bộ từ miền Bắc vào và dòng họ Trư bát Giói. Mùi cám lợn, phân heo và thuốc lào, bốc ra tận đường Chu Mạnh Trinh, Hải Thượng nơi đài chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam, khiến khách bộ hành phải nhanh chân rời xa vùng xú uế. Nghĩa trang QLVNCH cạnh QYV Đoàn mạnh Hoạch, tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiên trên triền đồi Lầu ông Hoàng bị san bằng, đập bỏ. Chợ lớn trên đường Gia Long vẫn xám đen màu khói từ đêm binh biến 2-4-1975, cầu sắt trên sông Cà Ty gãy nhịp nào ai ngó tới, dù vàng ngọc, tiền bạc và tài sản của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại đã không cánh mà bay mất. Các nhà lều sản xuất nước mắm danh tiếng nhất nhì của Việt Nam từ thời tiền chiến tại Đức Thắng, Bình Hưng, Lạc Đạo sập tiệm vì ngày lại ngày, hàng hàng lớp lớp các xe vận tải, Molotova, GMC giải phóng đưa về Bắc, cho tới nước bổi cũng không chừa. Người người dửng dưng như kẻ lạ xa, mặc sâu bọ cầm quyền trị nước.
Nhớ lại chương trình tị nạn cộng sản của Bộ Xã Hội và chính sách an cư Việt kiều Kampuchia hồi hương năm 1970 của bác sĩ Quốc Vụ Khanh Phan quang Đán, thời Việt Nam Cộng Hòa mà ngao ngán cho kinh tế mới của Việt Cộng tại Đức Linh. Đây là tên ghép của hai quận Tánh Linh và Hoài Đức, tỉnh Bình Tuy thời Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1961, Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì có tình cảm liên quan mật thiết với Bình Thuận khi giữ chức Tri Huyện Hòa Đa và Tuần Vũ tỉnh, hơn nửa có tình bạn sâu nặng với nhà giáo lão thành Hoàng Tỷ, nên Ông đã cấp một ngân khoản lớn để cho đồng bào nghèo tại các quận Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vào khẩn hoang lập ấp tại vùng hoang sơn trù phú của huyện Tuy Định, sau này là quận Tánh Linh. Vùng đất mới được tách thành một quận mới, đó là Hoài Đức, quận lỵ đóng tại Vỏ Đắc. Đây là vùng đất đỏ cao độ hoang vu của tỉnh Đồng Nai Thượng xưa, được tách ra từ tỉnh Bình Thuận, nằm trong sơn hệ Di Linh - Lâm Đồng, phần cuối cùng của rặng Trường Sơn, thuộc cao nguyên nam Trung Phần. Toàn vùng lúc đó chỉ là núi rừng hiểm trở, lắm ác thú như cọp, voi, heo rừng, mảng xà, rắn độc. Khắp nơi muỗi mòng, đỉa vắt sền sệt như bánh canh, đâu có thua gì vùng U Minh, Đồng Tháp. Giang sơn của người thượng Roglai và Chàm, khí hậu ẩm thấp, phong thổ độc địa. Sông La Ngà lắm ghềnh thác, thường gây lũ lụt bất thường vì lưu lượng nước lên xuống không đều, ảnh hưởng của triền núi nơi sông chảy qua. Do trên mực độ dân số trong vùng rất thưa thớt, ngoại trừ Võ Đắc, Lạc Tánh.. là nơi các Trung Đoàn thuộc SĐ18BB thường tạm đóng trong lúc hành quân.
Ngay khi có lệnh đi kinh tế mới, ba câu hỏi đã được đồng bào bàn tán lén lút: đi hay là ở lỳ, cưỡng lệnh sẽ ra sao và Đức Linh là chốn nào nhỉ" Một số còn tiền, chạy vội cái giấy về đất cũ nơi các thôn xóm ven đô như Phú Lâm, Phú Hội, Lại An, Phú Long.. Số khác may mắn hơn được xuất ngoại chính thức bằng tàu của Đảng đậu trước Trường Nữ tiểu học năm 1977, sau khi đóng hết vàng, đô la và hiến nhà cửa cho cán bộ. Chiếc tàu này sau đó đến được trại tị nạn Pulau Bidong của Mã Lai Á, mang số 67, hầu hết là người Việt gốc Hoa giàu có của Bình Thuận. Những người không có tên đi kinh tế mới, thì phải đi nghĩa vụ lao động tại Đức Linh, không phân biệt nam nữ, số tuổi hạn định 17-50, đó là chưa kể tới các nghĩa vụ thanh niên xung phong và nghĩa vụ quân sự, điều kiện ắt có để làm dân thường trú Phan Thiết có sổ gia đình, hộ khẩu và tem phiếu mua nhu yếu phẩm chỉ có bán tại cửa hàng quốc doanh. Viết sao cho hết đây, nỗi thương tâm đau khổ trong những ngày cuối cùng của dịch kinh tế mới. Khắp nơi vang tiếng khóc, người người ủ rũ tựa hồn ma. Chống đối dữ dội lệnh trên, cũng vẫn là những kẻ được đảng nâng niu dụ dỗ buổi trước, đó là mấy bác phu xe, gánh mướn, các chị bán mẹt buôn bưng, anh thợ nề, chú dân biển.. ở các khu phố xôi đậu ven đô buổi trước tại Đức Long, Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long.. Vì là thành phần vô sản chuyên chính và có công với đảng, nên các cán bộ khu, phường đều lánh né, mặc sức cho họ tru tréo, trong lúc sắp đi xa. Những người khác, nhất là thành phần bị gán bậy là ngụy quân, ngụy quyền, tư sản mại bản.. thì biết phận, vặt vãnh bóp chắt những thứ còn lại sau cuộc phong trần, bán để có tiền mua đinh, lá, dây lạt và thức ăn khô dự trữ, để bắt đầu làm một cuộc hành trình mới như cha ông ta đã làm từ 300 năm trước, có điều lúc đó tiền nhân ra đi trong phấn khởi đầy lạc thú và hy vọng, còn giờ con cháu lên đường bởi cùm gông và bạo lực. Để gọi là ưu ái với dân, nhà nước tại Bình Thuận cấp tem phiếu mua thuốc phải trả tiền và như thế, lớp lớp người nối đuôi nhau trước nhà thuốc tây quốc doanh duy nhất, trước là nhà thuốc Phạm tư Tề, để mua vài thứ thưốc nội chế bằng võ cây đường bột, ký ninh nivaquine và những loại thuốc chống sốt rét nước độc tại chợ đen đều lên giá vùn vụt theo ngày cách mạng từ rừng vào tiếp thu Phan Thành, để không bị cảnh trâu sau uống nước bùn trâu trước, nhưng biết làm sao hơn"
Phút cuối bị súng đạn bó buộc phải xa rời nơi chôn nhao cắt rún, sao mà buồn quá đổi. Mười ba năm sống đời quân ngủ, ta đã đi cùng khắp mọi nẻo đường đất nước, từ biển lên rừng, chốn đồng quê cho tới thành thị, vẫn được trở về, dù về trong nỗi đau phải mất mát một phần thịt da của mẹ. Nay thì hết thật rồi, nhà xưa thành hoang phế, sự nghiệp nát hơn tương, thân nhân, bằng hữu.. kẻ chết kẻ còn bị tù đầy, còn ta tuổi xanh chịu đời vất vưởng, bất lực. Chỉ còn biết lau nước mắt, cắn nát môi và uất nghẹn căm hờn, lần chót nhìn lại mảnh tường đổ của mái ấm vừa bị hạ, nếp sống cũ bị xóa mờ, chấp nhận làm kẻ lưu vong trên chính quê hương mình.
Một đêm không ngủ, một đêm náo loạn tập thể, kẻ ở người đi gạt lệ an ủi quyến luyến. Các gia đình 'ưu việt' thuở trước tru tréo đảng và nhà nước không tiếc lời. Trưởng khu, chủ tịch, bí thư kể cả công an khu vực trốn mất suốt đêm, vì sợ bọn điên cùng đường trả thù. Cảnh tử biệt sinh ly sao mà buồn lắm thế.
2-ĐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC :
Năm giờ sáng ngày 17-7-1977, trong lúc nạn nhân chưa được hoàn hồn sau một đêm thức trắng thì máy nói, từ đỉnh cao của lầu nước, mở hết tốc độ âm thanh, tru tréo, ra rã thúc hối đồng bào sẵn sàng lên đường. Đoàn thanh niên nam nữ 30-4 theo lệnh hối hả, khuân vác đồ đạc của các nạn nhân ra xe. Phường khóm, tổ khu phố lũ lượt kéo tới chúc mừng, có cả phóng viên, nhà báo, quả là một chuyện ngược ngạo lì lợm, kinh thiên động địa, chưa từng thấy trong lịch sử con người.
Đúng 7 giờ sáng, tất cả xe cộ của chín phường trong thị xã, sau khi hốt đủ người, tập trung tại vườn hoa nhỏ đầu đường Gia Long. Năm Lý, Trung Tá Việt Cộng, chủ tịch ủy ban Kinh Tế Mới Đức Linh, một người phát xít nhưng được hầu hết dân chúng bị đi Kinh Tế Mới rất ái mộ vì ông hiền từ, chân thật, còn có nhân tính con người, trong xã hội hết tình người, đã đọc diễn văn, cắt băng khánh thành rồi ban lệnh khởi hành. Ngay từ đó, hàng trăm tên du kích, công an hầm hầm áp tãi 10.000 người Phan Thiết và 2500 nạn nhân KTM miền Trung trốn trại, lên Kinh Tế Mới Đức Linh để xây dựng cuộc đời mới trong thiên đàng xã nghĩa.
Đoàn xe dài lê thê, hàng nối hàng, chạy vòng quanh vườn hoa nhỏ trước nhà sách Vui Vui, ngược chiều phố Gia Long, Đồng Khánh, Trần quý Cáp với tốc độ chậm, để các nạn nhân được nhìn lại nơi chốn thân yêu lần chót, sau đó nhấn hết ga, mặc kệ đồng bào đang bị chèn ép sau thùng xe vận tải, khiến cho người, đồ đạc, gia súc chen chúc ngồi đứng, dở khóc, dở cười.
Phan Thiết - Đức Linh cách xa 178 km, trừ đoạn đường 58 km trên quốc lộ 1 tráng nhựa tốt, số còn lại từ căn cứ 6 đến Võ Đắc, gọi là Tỉnh lộ 1, chỉ là đường đất đá gồ ghế, nhiều chỗ cầu bị gẫy chưa được sửa chữa, phải chạy vòng dưới lòng suối sâu vô cùng nguy hiểm. Rừng lá tuy được khai quang, nhưng nhiều nơi xe vẫn chui luồn dưới những tàn cây mịt mù sương khói, không nhìn thấy mặt trời, khắp nơi vượn khỉ nhảy nhót trong lùm cây, đa đa gù vang đây đó. Một vài chú sóc tinh nghịch, khi biến, lúc hiện trước đầu xe như trêu chọc người phố thị. Bình Tuy đang mùa nắng cháy, hơi núi bốc nóng như thiêu, cộng với bụi đường đất đỏ, khiến cho ai cũng rã rượi, mệt nhừ vì khát nước, nhồi xốc, chen lấn và tủi phận.
Đường bộ băng ngang thiết lộ tại ga Suối Kiết, muôn năm nằm ngủ quên dưới chân núi Ông mịt mù mây phủ. Từ đây đường bắt đầu lên dốc xuống đồi, nhiều quãng cây cối mọc be ra tới ngoài che kín lối đi. 12 giờ trưa cùng ngày, xe mới tới phố huyện Lạc Tánh, cũng là cửa ngõ vào thiên đàng Kinh Tế Mới Đức Linh. Có tất cả 8 khu vực, 1 nằm bên nam sông là Vỏ Su, kế cầu Lăng Quăng, nối tiếp với Kinh Tế Mới Duy Cần dành cho đồng bào các quận 8, 9, 10 Sài Gòn và Trại cải tạo dân quân Huy Khiêm. Các khu vực khác đều ở bên bắc sông La Ngà, gồm có Đồng Kho, Tà Pao, Bắc Ruộng 1, 2, Nghị Đức, Mê Pu và Sùng Nhơn. Sự sắp xếp tùy theo đoàn xe tới sớm hay chậm, không cần biết khu, phường hay liên hệ gia đình, khiến cho nhiều hộ, cha mẹ ở nam, con cái tại bắc, nhưng đã đến đường cùng, đành cắn răng, bấm bụng, gạt nước mắt mà sống qua ngày.
Lối về đất chết đầy ghê rợn, cồn mây heo hút chắn lối đi, thêm trận mưa rừng đầu mùa, khiến mọi người càng đứt ruột. Xe đã vào truôn, đây là Đồng Kho tre mây nối vòng tay lớn che mát đường đi, lố nhố khắp nơi từng dãy nhà sàn của bộ lạc Roglai xơ xác rã rời với cát bụi thời gian. Rồi thì bờ bụi, lau lách như muốn nuốt trửng con lộ đất đỏ ngoằn ngoèo đầy ổ gà, ổ voi, len lỏi hai bên vách núi cao ngất, dẫn tới thung lũng Đoàn Kết, ủ rủ cheo leo dưới chân rặng núi Ông, đang chực chờ đón người Kinh Tế Mới. Nhiều xe lại bị tách rời, lại những bàn tay khẳng khiu đau khổ đưa vội, vẫy vẫy chào chào, hẹn ngày tái ngộ. Rồi Tà Pao, vùng đất úng thủy, mệt mỏi ngủ lỳ giữa tiếng thác ghềnh gào thét. Chiếc cầu sắt vừa mới được bắc ngang sông La Ngà, còn thơm mùi sơn đỏ, từ xe nhìn xuống thăm thẵm vực sâu, kẻ ở người đi ngàn trăm lưu luyến. Rừng núi cũng hân hoan đón người lạc bước nhưng dân địa phương, đa số là Quảng Ngãi thù ghét ra mặt, lòng dạ sâu hiểm hơn rắn rết, một ngụy hai ngụy, xin nước uống cũng không cho, làm cho ai nấy thêm não nùng cho thân phận con người bại trận, mất nước.
Huy Khiêm, Bắc Ruộng, Nghị Đức, Mê Pu, Sùng Nhơn, Madogui, đèo Chuối trên quốc lộ 20, những địa danh một thời in mòn gót giầy của người lính trận Trung Đoàn 43, SĐ18BB, nay thành chỗ giam giữ nô lệ Phan Thiết. Ngày nóng, đêm lạnh, gió núi, sương rừng se sắt buốt lịm thịt da. Sơn cốc bị đá xanh, mây xám, bụi đỏ miên viễn mịt mờ. Rừng già, rừng xanh chằng chịt, từ đây chúng ta thành sơn nhân, dã thú, ngày ngày ngắm mây trắng la đà ngâm câu 'Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại' của Hàn Dũ khi bị đầy, cho bớt nhớ nhà.. Bắc Ruộng 2, hay Tà Lễ 2 sau là thôn 3, xã Bắc Ruộng, quận Tánh Linh, lừng danh nhất trong 9 địa điểm giam cầm người Phan Thiết. Đây là một làng chiến đấu cũ của Việt Cộng trước năm 1975, vùng oanh kích tự do nên quanh quẩn khắp nơi còn in dấu nhiều nền đất xám, bìm cỏ rậm rịp, đụn mối cao ngất, hầm chông hố bom còn nguyên vẹn chưa được lấp lấy. Thêm vào đó rừng sát đường nên ban đêm văng vẳng tiếng cọp gầm, voi rống, cú vạc tru tréo cầm canh, thay thế tiếng chó gà báo thức. Pháp trường cây xoài quéo, nơi ngã ba vào Nghị Đức như còn ẩn hiện các hồn ma oan khiên Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng kết tội Việt gian, đem xử giảo rồi quăng xác xuống suối cho thú dữ ăn. Máu người hòa với nước mưa làm cho nước lạch lúc nào cũng đỏ thắm không bao giờ cạn và đổi màu.
Nhiều dãy lều Kinh Tế Mới được các nghĩa vụ lao động dựng vội vã cho đạt chỉ tiêu, dọc theo hai bên đường cho tới bìa rừng. Không biết phải dùng cái danh từ gì để gọi nó cho hợp lý, vì láng cũng chẳng phải là láng mà nhà lại càng kỳ cục vì chỉ có mái lá lợp thưa thớt nên các tia nắng mặt trời ban ngày hay ánh trăng đêm tha hồ nằm bên trong thưởng thức. Thảm nhất là hàng cột con ốm yếu, khẳng khiu như kiếp cơ hàn của người dân Việt trong xã nghĩa, chỉ chực gãy mỗi khi gió rừng nổi giận. Chỉ có cái nền nhà là được khai quang, còn bên ngoài cỏ lau xanh ngắt. Đồ đạc, người ngợm bị vứt bên đường, ỳ ạch khuân vác vào địa điểm vừa bốc thăm nhà, đã muốn ngất ngư chết xỉu. Tội nghiệp và thảm thê vô cùng là các gia đình quân công cán cảnh Việt Nam Cộng Hòa có chồng đang còn tù tội, chỉ có một góa phụ và mấy đấng trẻ nít, làm sao đúng tiêu chuẩn lao động sản xuất đây, vậy mà cũng bị hốt lên rừng để xây dựng kinh tế mới.
Mọi sự rồi cũng phải qua, dù thích hay không muốn. Lấy sức người sỏi đá cũng thành cơm, thì sá gì phần ruộng dành cho người Phan Thiết. Kinh Tế Mới lúc đó vẫn còn đắm chìm dưới biển lau sậy, tận hồ Lạc, dưới chân núi Bảo Đại mù mịt hơi sương. Ngày tháng vùn vụt lướt nhanh, người người phờ phạc vì lao tác và thiếu dinh dưỡng. Dầm mưa đội nắng, suốt ngày ngâm mình trong bùn, sình, nước đục, cuốc, đắp, phát quang.. quanh đi quẩn lại, từ 5 giờ sáng thức giấc theo tiếng kẻng gọi hồn cho tới tối mù mịt mới mò về nhà, cũng bấy nhiêu thôi. Tình cờ soi gương, thấy mình như đổi khác, ta đã thành sơn nhân, thành tên ma đói chập chờn vất vưởng trong cõi đời trầm thống não nùng. Thương sao là thương mấy bà, mấy cô em học sinh trung tiểu học năm nào, ngây thơ, bé bỏng, phải xếp bút nghiên theo cha mẹ đi lao động. Mệnh phụ, tiểu thơ, thanh tân, đài các, mắt phượng da ngà, chỉ sau một thời gian ngắn dầu dãi phong trần, tất cả biến thành cô gái lọ lem, quần áo rách rưới, da dẻ xám xịt gầy gò, khấp khểnh vác cây cuốc xã hội chủ nghĩa cao hơn đầu người, tức tủi thương cho phận hồng nhan đa truân, giữa buổi đất trời nổi cơn gió bụi, khóc thét khi đỉa vắt bám vào chân, đùi, nước mắt ràn rụa như không bao giờ vơi trên các khuôn mặt đẹp của một thời hoa bướm, nay chỉ còn hốc hác, héo mòn. Đàn ông, thanh niên, thương gia, trí thức, dân lao động, làm biển.. cũng đâu có sung sướng gì. Tất cả lết lê quằn quại trong địa nguc trần gian. Thần chết cũng đánh hơi bạo lực, bắt đầu đến với người Kinh Tế Mới. Thôi thì đủ thứ, từ chuyện phong thổ u uất ẩm thấp, nước uống thức ăn thiếu vệ sinh và chất bổ dưỡng, muỗi rừng ào ạt tấn công người gây bệnh thổ tả và các loại sốt chết bất đắc kỳ tử. Ngoài bệnh tật, còn chết vì đốn cây, chặt tre vô ý, đi ruộng không coi chừng bị rắn độc cắn cũng chết, đói quá ăn rau nấm bậy bạ trúng độc cũng chết, mìn chông hố bom lựu đạn ngày xưa để lại, thỉnh thoảng nổ bậy, ai bất hạnh trờ tới đúng lúc cũng chết.
Tang tóc, lầm than, khổ đau và nhục nhả vây kín người Phan Thiết bị hốt đi Kinh Tế Mới trong giai đoạn này. Hỡi ơi những năm tháng đời quân ngũ, ta đã chôn người thật nhiều, chôn xác bạn trên chiến trường vội vã, chôn xác thù giữa trận địa hoang liêu. Rồi qua nhiều lò cải tạo, nay đến miền kinh tế mới, lại tiếp tục lo việc chung thân cho bao nhiêu người, nào đồng đội, đồng bào, thân nhân, bằng hữu, tất cả chỉ có hai bàn tay, vài thanh tre, một cái hố thẳm, gói ghém một đời người bất hạnh trót sinh nhằm thế kỷ, ngủ yên trong manh chiếu rách hay chiếc mền tả tơi, bụng rỗng xương sống xương sườn đếm đủ. Tất cả chỉ là cát bụi, 'sinh ký tử qui', thế gian là cõi không không miên trường. Chôn người đâu có gì khó" nhưng đứng nhìn xác chết lạnh tanh, với cảnh thống khổ biệt ly giữa biển nước mắt, nghe lời nỉ non kể lể của quyến thuộc người xấu số, để làm như một kẻ dửng dưng không hề có tình người như người Việt Cộng là một điều cười ra nước mắt:
'.. sao thấy cay xè trên chót môi
rờ tay mới biết lệ mình rơi,
đời người, sinh tử là qui, ký
thì có gì đâu phải rã rời"'
Thế là hết, những người Phan Thiết một đời bỏ đi làm cách mạng, chỉ mong mang lại no cơm ấm áo cho đồng bào mình nhưng họ đã lạc lầm chạy theo chủ nghĩa ngoại lai, nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cộng đảng quốc tế từ Mạc tư Khoa, Bắc Kinh, Hà Nội, mang thương đau về cho xứ sở, chốn chôn nhao cắt rún, cho thâm tình bằng hữu và mọi gia đình, để đổi lấy chút tem phiếu và quyền lợi thừa mứa do đảng và nhà nước vung vãi khi đã ôm ngập tới đầu. Đói, chết, tuyệt vọng trùng trùng đã khiến cho người Phan Thiết quật cường trở lại. Thế là bất chấp du kích công an, đồn canh trạm gác, kiểm soát khắp nơi như thiên la địa võng, mọi người khăn gói bồng bế nhau trở về. Đây là cuộc di tản cuối cùng của người Việt Phan Thiết sau ngày mất nước 30-4-1975.
Từ đó Phan Thiết trở thành quê hương của đói rách lầm than. Người người dửng dưng trước thời cuộc, nhắm mắt xuôi tay chấp nhận kiếp số. Phó mặc cho đảng và cán bộ đẩy đưa, xếp đặt, coi như mình không có hiện diện trong cõi đời này. Phố Gia Long, nay đổi thành Nguyễn Huệ, nhưng có mang cái tên gì chăng nữa thì đó cũng thành khu chợ trời công khai, người ta, kể cả cán bộ Bắc hồi kết Nam, mang những thứ của công chiến lợi phẩm hay mua rẻ hoặc móc ngoặc từ quốc doanh, nhà kho.. ra bán cho phó thường dân với giá cắt cổ. Đây cũng là chốn bàn bạc áp phe và toan tính chuyện vượt biên, vượt biển. Ao rách bạc mầu vá víu chen lẫn với bò vàng cán ngố, cười đó rồi trở mặt đó, tuồng hát cứ quay tít trong sự lường gạt đấu trí với nhau để sống còn. Riêng các nạn nhân Kinh Tế Mới, bắt rồi thả, sáng nay đẩy lên xe về rừng, mai mốt đã thấy xuất hiện nơi phố chợ. Nhà tù chật cứng, tư cách gì bắt dân thường đi cải tạo, hơn nữa chỉ tiêu Tỉnh đã đạt được 150%, nhà của Họ cũng đã bị chiếm, thôi làm lơ cho yên việc. Từ đó quán cà phê mọc lên như nấm vẫn không đủ chỗ cho người thất nghiệp. Nhà ga xe lửa Phan Thiết, vườn hoa đường Nguyễn Hoàng, bến cá Cồn Chà.. thành khách sạn miễn phí của người tay trắng từ Kinh Tế Mới chạy về. Ngày tỏa ra khắp nơi kiếm ăn, tối tụ lại ngủ chung tập thể khắp sân ga, hiên người, tắm nước sông, uống nước máy, biến thành con ma chơi, kẻ tha nhân ngay chính trên quê hương do Tổ tiên, cha ông và ngay bàn tay gầy dựng của mình.
3-RỦ NHAU BỎ XỨ MÀ ĐI VƯỢT BIỂN :
Người Bình Thuận đã bỏ xứ mà đi ngay khi giặc về đêm 18-4-1975, đa số là người Bắc di cư ở các phường ven biển như Thanh Hải, Phan Rí, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú và nhất là Bình Tuy. Từ những năm 1977 tới 1980, đảng Cộng Sản qua công an và hải quan 'bán chính thức' tổ chức vượt biển để lấy vàng, dù trước đó, luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luật hình sự, điều 85, mục 2 và điều 88, xử phạt nặng kể cả công an, cán bộ cưỡng ép, xúi giục người trốn ra nước ngoài. Năm 1977 khởi đầu thử nghiệm chuyện xuất cảng người, mà đối tượng là giới tài phiệt Việt-Hoa, theo thời giá mỗi đầu người 10 lạng vàng y, trị giá 4000 đô la Mỹ. Cũng trong năm này, Phan Thiết có tổ chức đi bán công khai nhưng sau đó dẹp luôn vì ai cũng muốn đi chui, vừa rẽ lại an toàn.
Có một điều tréo cẳng ngỏng là Bình Thuận là nơi có nhiều cửa sông, bến cảng, ghe thuyền lớn và rất nhiều, nhưng hầu như có ít tầu ghe vượt biên, ngoại trừ số ra đi năm 1975. Tại trại Pulau Bidong, từ năm 1977 cho tới 1980, có tới mấy trăm tàu vượt biên, nhưng ghe Bình Thuận chỉ có chừng 5 chiếc, một là tàu đi bán công khai năm 1977, số còn lại là chiếc giã Nùng Phan Rí, I chiếc khác mang số Phan Rí là tàu quốc doanh và chiếc duy nhất có 32 người Phan Thiết, đi ngày 31-10-1978 tại bãi Thương Chánh, mang số PT1109, là tàu số 100 của trại Bidong, Mã Lai Á. Vào tháng 9/1978, lợi dụng Việt Cộng Bình Thuận no say ăn mừng, một chiếc tàu đánh cá hạng trung tại Bình Hưng, chở trên 200 người, công khai ra biển vào ban ngày. Chiếc tàu vượt biên may mắn trên lại gặp may mắn lần nữa khi tiếp cận với một chiếc tầu dầu Mỹ, tất cả được vớt và gởi tạm thời tại một trại tị nạn ở thủ đô Jakarta, Nam Dương.
Sau này, nhiều người Phan Thiết vượt biển kể rằng sở dĩ họ không dám vượt biên ở tỉnh nhà vì hầu hết những người có tàu thuyền tại địa phương rất gian xảo, đồng ý tổ chức lấy vàng, rồi đi báo công an, sau đó tiếp tục làm lại từ đầu. Nhưng theo dân biển, thì họ cũng bị người đi vượt biên gạt bằng cách chung vàng giả, chỉ có lớp vàng mạ ở bên ngoài, bên trong là chì, bạc hay là đồng. Tóm lại ai thật ai giả, không biết đâu mà mò. Nhưng có điều chắc chắn là từ sau năm 1980, gần 90% các chủ ghe tàu Bình Thuận đã đem tàu thuyền của họ ra đi không trở lại, mãi tới đầu năm 1990, khi Đông Au, Liên Xô giã từ thiên đàng xã nghĩa, Việt Cộng đói quá chịu mở cửa đón Việt kiều khúc ruột xa khơi trở về, các chương trình đoàn tụ gia đình, diện con lai, HO.. và trên hết quốc tế chấm dứt nhận người vượt biển, người Bình Thuận mới chịu chấm dứt mộng du học ngoại quốc bằng đường biển.
Lai thêm một năm buồn ly xứ sắp tới, đêm nay trời Xóm Cồn bổng lạnh buốt, như những lời thơ thảm tuyệt của bạn già gửi từ Kinh tế mới Đức Linh tới :
' thư bạn gửi từ vùng kinh tế mới
đến tay ta hơn sáu chục ngày dài
giọng đùa cợt như thuở chớm đôi mươi
nhưng bút mực làm sao che nước mắt
*
Đọc thơ bạn giữa đất trời cô độc
đêm nay buồn thổn thức với quê hương
thảm thương ơi bao bè bạn đoạn trường
giờ vẫn trả nợ trai thời tao loạn.
Xóm Cồn, Chạp 2005
MƯỜNG GIANG

 Brief History of Combat Skyspot Program


In the early days of the Vietnam War, US chapter, USAF, USMC, and USN aircraft were unable to deliver ordnance with reasonable accuracy under conditions other than good weather and daylight.  It became apparent that this was not going to work, especially as the war heated up and many more US forces became involved.  There had to be a way to accurately deliver bombs on targets during bad weather and at night.


 


There were two aircraft types that were capable of all-weather day or night bombing. These were the A6 Intruder and the B52 Stratofortress. There were only a few A6's in theater, and there were serious political concerns over using the B52, which was, after all, a nuclear strike weapon.  Out of some sense of desperation, the US government finally overcame its political willies over using the B52 in the war, and the first B52 mission in South Vietnam was flown in 18 June 1965.


 


These early missions were accomplished not by "Ground-Directed Bombing" (GDB),  but by using the B52’s on board system, the bomb-nav system. The results were not impressive. For example, in the first mission, 27 B52's dropped approximately 1300 bombs into a target box 1 mile wide by 2 miles long.  According to the official USAF history, a little more than half of the bombs fell into the target box. The other half obviously didn’t, making it a little rough on anyone in the immediate vicinity, especially if they didn’t need killing and maiming.



Strategic Air Command was using a rather simple, and accurate, method of testing the bombing skills of SAC aircrews. This method involved no real bombs. It involved tracking the bomber using a what was essentially a modified gun-laying radar, plotting the aircraft track on paper. The bomber crew would signal the point at which the simulated bomb was released. Though a voice indication would work, usually the release point was logged by means of an electronic tone that was turned on some seconds prior to simulated release, and then turned off at the release, causing a break in the recorded track of the aircraft.  If accurate altitude, ground speed, airspeed, and wind data were provided, a ballistics table for a particular bomb type could be consulted, all that external data applied to the recorded ground track, and a surprisingly accurate score rendered.  By reversing this scoring process, and tweaking the system to fine-tune its various aspects, a very accurate ground directed bombing system (TSQ-77) was devised.  This worked with most bomb types, a notable exception being unfinned napalm. It also worked with just about any aircraft that could drop a bomb, including C130’s and the huge 15000 pound bombs used for clearing landing zones (COMMANDO VAULT).


 


Beginning in October 1965, SAC proofed out the TSQ-77 system with F100's at the Matagorda Island Range, which was home to Detachment 7, 1CEG, which was later changed to 1stCEVG.  GDB reduced the error considerably, with most sources concurring that Skyspot could deliver within a few hundred feet or less.


 


A USAF program to utilize the TSQ-77 in the SEA theater was developed.  This program was called COMBAT SKYSPOT.  The first COMBAT SKYSPOT sites were deployed to Vietnam in March 1966.  Soon ground directed bombing became the much preferred method of dropping bombs, not only by tactical aircraft, but also the B52’s.  COMBAT SKYSPOT sites were utilized somewhere in excess of 75% of all B52 strikes, which were called ARC LIGHT missions.


 


COMBAT SKYSPOT sites had a site designator starting with OL, for Overseas Location.  The following is a list of OL sites:  


Vietnam:


Bien Hoa (first operational site, 1 Apr 66, call sign MACON)


Pleiku  (second operational site, 26 Apr 66, call sign BONGO)


Dong Ha (fourth operational site, 30 June 66)


Dalat (fifth operational site, 26 Sep 66)


Monkey Mountain/Phu Bai (call sign MILKY)


Vung Tau


Binh Thuy  (call sign GAP)


Thailand:  


Nakhon Phanom (third operational site, early June 66; call sign BROMO))


Ubon (operational some time after Binh Thuy closed; call sign GAP)


Udorn (call sign LID)


Mukdahan  (planned site, diverted to NKP)



These were not all operational at the same time.


 


Matagorda Island and Detachment 7 became the training school for SKYSPOT crews going over to SEAsia. Later, in the 1970-71 time frame, this training transitioned over to Detachment 50 at Bergstrom AFB, Austin, TX. Matagorda was quite remote, with a host of logistics issues. Moving the school to Detachment 50 greatly improved support for students and permanent party. The training program was called BUSY SKYSPOT. In addition to the SKYSPOT training, Detachment 50 also hosted a TSQ-96 maintenance training course.



COMBAT SKYSPOT was used in every major campaign beginning in 1966, in Laos, Cambodia, South Vietnam, and North Vietnam, except for operations too far north to allow radar tracking.  B52’s directed by SKYSPOT sites helped save the Marines at Khe Sanh and Con Thien, and in thousands of other miserable little pestholes and incidents where the lives of our grunts were seriously in doubt, COMBAT SKYSPOT beyond question kept a lot of names off the Wall. No matter one’s individual perspective, whether this was The Right War or something else, this service to our comrades was a good thing.  COMBAT SKYSPOT sites were used in tens of thousands of missions involving USAF, USN, USMC, RAAF, and VNAF fighters and attack bombers.



By the time the system had matured, most of the sites were equipped with the AN/MSQ-77. Udorn and Ubon had the AN/TSQ-96. Nakhon Phanom had both an AN/MSQ-81 and an AN/TSQ-96. Nakhon Phanom and Udorn also played roles in the HEAVY GREEN project.


 


Later in the war there was considerable doubt as to the usefulness of the bombing, especially in Cambodia. Anyone who was there, and who considers it objectively, comes to the conclusion that we dropped an awful lot of bombs on nothing but empty real estate as part of an area denial scheme.  See also the page for OL-25 at Ubon for more views on the Cambodian bombing. That notwithstanding, COMBAT SKYSPOT was used extensively to relieve pressure on US forces, and to a lesser extent, on ARVN forces. Some of the most spectacular uses included the prelude to the Cambodian incursion, the battle for Skyline Ridge, the relief of beleaguered ARVN forces in Lam Son 719, LineBacker I, Con Thien, Khe Sanh, An Loc, Kontum, and of course numerous battle sites during the Tet ’68 offensive.


 


With few exceptions, COMBAT SKYSPOT was not a particularly demanding mission. As the war dragged on and physical conditions improved on the bases where the sites were located , the worst aspects were probably boredom and heat, and separation from family. With few exceptions, crews slept in relatively comfortable hootches on real beds, had real showers, had access to real chow halls, and had many amenities that grunts only occasionally experienced. The sites located on the Thai bases were particularly comfortable. But, there were a lot of repeat tours, and these separations took a heavy toll on families and relationships.


 


COMBAT SKYSPOT tours were six month TDY's, and it was not unusual to find troops with three or more such tours. Add to that the fact that at that time USAF gave no credit for Southeast Asian tours or short tours. So, a fellow who might have three or four SKYSPOT tours within the space of a couple or three years might find himself pulling a year in Korea or some other remote location.


 


As far as actual combat, that just didn’t happen, certainly not anywhere near the sense we think of it involving patrols, firebases, troop insertions into hot LZ’s, and so on. Bases on which the COMBAT SKYSPOT sites were located were in fact subjected to enemy attack, but these were general in nature.


 


The COMBAT SKYSPOT program did suffer some casualties.



5 June 1966 - Six men were killed near the Dong Ha site (OL??), when they sallied forth after refusing accompanying security forces, in order to complete final surveying prior to activating OL??:



John Guerin

Rufus James

Bruce Mansfield

Antone Patrick Marks

Jerry Olds

Ephraim Vasquez



11 March 1968 - Twelve men lost their lives at OL48 (most commonly referred to as Lima Site 85), while part of Operation HEAVY GREEN.  The top-secret, AN/MSQ-81 radar site was located on top of Phou Pha Thi, located in northern Laos.



Clarence F. Blanton

James H. Calfee

James W. Davis


Richard L. Etchberger

Henry G. Gish

Willis R. Hall

Melvin A. Holland

Herbert A. Kirk

David S. Price 

Patrick L. Shannon

Donald K. Springsteadah

Don F. Worley



24 February 1968 - at Gia Dinh:


Lowell V. Smith (TSgt Lowell Vetter Smith is listed in the Vietnam Veterans' Memorial website database. I can find no other information about him. He is listed on the Combat Skyspot Memorial plaque, but is otherwise a mystery, unlike the men who died at Dong Ha and at Phou Pa Thi.)



The last COMBAT SKYSPOT/ARC LIGHT mission of the war was on August 15, 1973, from OL-25 at Ubon RTAB. That involved WHITE cell, a very shaky beacon, a track that looked like it had been laid by a drunken sidewinder, and a target of vague description somewhere in southwestern Cambodia.

Sunday, October 1, 2023

 SƯ ĐOÀN 23 PHẢN CÔNG

Đây là bài thứ 5 trong loạt bài về chiến sự của QK-2 vào năm 1972, trong chuyên khảo đã dẫn. 

Sau đây là phần chuyển ngữ.

. . . 

"Thành công của đêm trước đã khiến đại tá Bá và sđ 23 nghĩ tới việc phản công. Đại đội 23 trinh sát đã được trực thăng vận đến 8 km tây bắc của tp Kontum. Từ đó đại đội tiến về phía nam để bắt tay với TĐ 2/45, đang từ hướng nam tiến lên. Họ đã khám phá 30 xác Bắc quân trong một khu vực bị B-52 oanh kích và bằng chứng của nhiều thương vong đã được mang đi. Các thành phần còn lại của trung đoàn 44 và 53 đã được tung ra để kiểm tra khu vực đã bị oanh kích vào tối qua. Sau một vài tiến bộ ban đầu, họ đã tạm ngừng do chạm súng nhẹ. Không kỵ Mỹ đã xác nhận sự tàn phá rộng lớn của của B-52 vì khi thám sát khu vực họ đã phát hiện địch đang cố gắng kéo xác chết khỏi các hầm trú ẩn. 

Ngày 21/5, một lực lượng đặc nhiệm gồm liên đoàn 2 và 6 BĐQ và thiết đoàn 3 đã bắt đầu một cuộc hành quân (HQ) để bảo vệ an ninh cho QL-14. Nam quân rất cần đường này để đưa đồ tiếp liệu cần thiết từ Pleiku lên tp Kontum. Một số phi xuất của B-52 và máy bay chiến thuật ném bom CBU-55 vào trung đoàn 95B csbv đã cố thủ ở đèo Chu Pao. Lúc đầu, cuộc tấn công này thành công, nhưng khi Nam quân tiến đến trong tầm của súng B-40, trận chiến đã trở nên ác liệt. Khi một số thiết vận xa M-113 và tăng M-41 bị phá hủy bởi B-40, mũi tấn công này của thiết giáp đã tạm dừng.

Trung đoàn 44 đã trở thành trừ bị của sđ vào đêm 21 sau khi các phòng tuyến được phục hồi. Sự thay quân này (transfer of positions) đã kéo dài trong hai ngày kế. Giai đoạn này bị ngắt quãng (punctuate) bởi những tấn công nhẹ bằng cối hay pháo và thăm dò nhỏ bằng bộ binh. Một cuộc tấn công nhỏ bằng đặc công đã xảy ra lúc 0630g ngày 23 và chạm súng lai rai (intermittent) đến 1900g cùng ngày. Các toán trinh sát trong giai đoạn này đã phát hiện ít nhứt 20 tới 30 xác chết và trang bị. Các lực lượng của tiểu khu đã tiếp nhận một hồi chánh viên (HCV) của trung đoàn 48 csbv. Y đã cung cấp vị trí của BCH trung đoàn này và cho biết thêm rằng hầu hết các đại đội của TĐ y chỉ còn mười người vì B-52 oanh kích. Vì nhiều tiếp tế của trung đoàn đã bị phá hủy trên đường đến phòng tuyến, lương thực cũng như thuốc chống sốt rét đã thiếu trầm trọng. Tuy hiểu biết của y về kế hoạch tấn công bị hạn chế nhưng y cho biết sẽ bao gồm pháo dữ dội, sau đó là tấn công của tăng và bộ binh. Sự ác liệt của pháo binh sẽ tùy thuộc vào tái tiếp tế, vì đạn pháo đang thiếu.

Sau một ngày để sđ nghỉ ngơi, đại tá Bá đã mở cuộc phản công mới vào ngày 24. Cuộc tấn công bắt đầu lúc 1045 g khi TĐ 1/44 được trực thăng vận đến một bãi đáp 4 km bắc của tp Kontum gần QL-14. Từ đây họ tiến về nam. TĐ 2 được trực thăng đến một km ở phía đông của TĐ 1 và tiến về nam. Một lực lượng án ngữ được đặt ở ngay phía nam của mục tiêu dự trù. Trong một cuộc hành quân (HQ) khác, trung đoàn 53 đã đánh về phía bắc để chiếm một làng nhỏ mà bắc quân đã chiếm ngày 22. Lúc 1245 g, cuộc hành quân hoàn tất và mọi đv đều chạm súng nhẹ. Địch kháng cự yếu ớt suốt buổi chiều và các đv đã chiếm mục tiêu lúc 1800g.

TRẬN TẤN CÔNG THỨ HAI VÀO TP KONTUM

Tiếp sau một thời gian tương đối yên tỉnh từ 2200g đến 0200g của ngày 25, những cuộc tấn công bằng pháo đã bắt đầu vào các đv của sđ 23 tại tp Kontum và khu vực phòng thủ phía nam. Pháo đã tập trung vào kế cận của sân bay và phần đông nam của tp. Lúc 0300 g, các TĐ 406 và 10 đặc công đã bắt đầu xâm nhập các vị trí của lực lượng tiểu khu ở phần đông nam của tp Kontum. Đúng như các cố vấn Mỹ đã dự đoán: do lính tiểu khu rời tuyến phòng thủ để về với gia đình trong tp mỗi đêm, nên phòng tuyến của họ đã có lổ hổng (gap). Di chuyển theo từng toán nhỏ cấp tiểu đội, một số địch quân đã ăn mặc đồng phục tịch thu của lính sđ 22 bộ binh. Bọn đặc công này đã xâm nhập thành công vào một khu nhà cửa san sát (built-up) gần sân bay, một trường học, một chũng viện Công giáo, và ngôi nhà của Giám mục người Pháp của Kontum. Một số đv ĐPQ của tiểu khu đã chống trả quyết liệt với địch. Lúc 0925 g, gần sân bay, một đv ĐPQ đã giết 20 đặc công khi chúng đặt một cối 60 ly để bắn vào sân bay. Suốt phần còn lại của buổi sáng và đầu buổi chiều, BTL của sđ 23 và các vị trí pháo binh của sđ đã bị pháo và cối liên tục. Theo lời khuyên của trung tá Gannon, giờ đây là cố vấn của trung đoàn 53, pháo binh đã chuyển vào vị trí mới sau khi hai khẩu của họ bị phá hủy bởi pháo địch. Sự chính xác của pháo binh Bắc quân đã được chứng tỏ vì sau khi Nam quân di chuyển đại bác, thì chẳng bao lâu, một quả đạn đã rơi 5 mét cách vị trí mới, tiếp sau là sáu quả đã phá hủy một khẩu 105 ly khác. 

Lúc 1300g chuẩn tướng Hill đã tuyên bố khẩn cấp chiến thuật (tactical emergency) cho tp Kontum, để hướng tất cả mọi yểm trợ của không quân và trực thăng võ trang khả dụng cho khu vực này. Lúc 1515 g, pháo binh của sđ 23 đã hoàn toàn bị vô hiệu (neutralize). Súng và đạn dược của họ hoặc bị phá hủy hay các pháo thủ đang tránh pháo trong hầm trú ẩn của họ do hỏa lực dữ dội của đối phương, giờ đây với nhịp độ một quả mỗi 30 giây. Sau khi đo đạc, thiếu tá Lovings, một sĩ quan gốc pháo binh, cho biết đó là đạn 155 ly. Lúc 1900 g, chỉ có 14 khẩu 105 ly và hai khẩu 155 ly là còn hoạt động để yểm trợ sđ 23. Các chuyến bay tiếp tế của C-130 đã đình hoãn trong tối 25 và 26 tháng 5, có nghĩa là sđ sẽ ko được tiếp tế trong 24 giờ. Vann ước lượng rằng ít nhứt một TĐ đặc công vẫn còn ở trong khu vực quanh sân bay. Lúc 0100 g ngày 26, pháo kích đã gia tăng tới vài phát mỗi phút. Ba hay bốn toán gồm xe tăng và bộ binh đã tấn công từ phía bắc dưới hỏa lực của pháo. Những cuộc tấn công chánh đã xảy ra chống lại trung đoàn 53 nhưng áp lực cũng gia tăng với lực lượng tiểu khu quanh tp Kontum. Khi trời hừng đông, trực thăng gắn phi đạn TOW đã bắt đầu bắn và giữa buổi chiều đã phá hủy hai T-54 và nhiều xe tải. Đại tá Bá đã ra lịnh một TĐ của trung đoàn 44, tăng cường bởi tám xe tăng, phản công. Cuộc phản công đã thành công khi ngăn chận sự xâm nhập của Bắc quân xuyên qua phòng tuyến giữa trung đoàn 44 và 53, và ngày 22 Nam quân đã có thể hạn chế thắng lợi của địch nhưng ko thể đẩy chúng khỏi những vị trí mà chúng mới chiếm. Tình hình đã hơi ổn định trong phần còn lại của ngày này trong tp. Tuy nhiên không kỵ Mỹ đã thấy những chuyển quân lớn lao của đối phương tới những nơi đã bị xuyên thủng (penetration), có thể họ là viện quân tăng cường cho chiến trường. Vì sân bay đã bị đóng đối với máy bay có cánh cố định, các trực thăng CH-47 đã được xử dụng để chuyên chỡ hàng tiếp tế khẩn cấp tới sân đá banh và tải thương binh nặng. Các nhân viên cảnh vệ người Mỹ đã canh gác các máy bay tiếp tế này để ngăn ngừa các thương binh nhẹ tìm cách rời bỏ thành phố đang bị bao vây.

Khi trời tối, pháo bắn vào BCH của trung đoàn 45 và 53 đã gia tăng. Trung đoàn 45 đã đối mặt những tấn công dữ dội nhứt (heaviest) của ba TĐ thuộc trung đoàn 64 csbv. Quân tấn công đã xuyên thủng phòng tuyến giữa trung đoàn 45 và 53 và bao vây các lực lượng của 45. Tất cả mọi không yểm chiến thuật đều dồn cho trung đoàn này. Sau khi thảo luận với Trung tá Grant, cố vấn của trung đoàn, đại tá Rhotenberry đã đồng ý chuyển hai phi xuất B-52 đã dự trù cho mặt trận khác, ném bom vào lực lượng đang tấn công trung đoàn 45. Bom đã thả lúc 0230 g và làm giảm đi cường độ của cuộc tấn công. Ngoài ra trung tá Grant còn chuyển tiếp các vị trí địch, gửi đi từ các đv ở phòng tuyến tới một máy bay gunship của không quân Mỹ, bay trên trận địa suốt đêm.

Khi trung đoàn 44 đã hoàn thành việc chuyển quân đến các vị trí mới để làm trừ bị cho sđ, họ đã ko để lại các toán đoạn hậu ở phòng tuyến cũ vì sai lầm tin rằng trung đoàn 45 và 53 sẽ nhanh chóng trám tuyến của họ. Sai lầm này đã gần như biến thành thảm họa. Bắc quân đã tấn công vào khu vực này với trung đoàn 1 của sđ 2 csbv, và trung đoàn 66 của Mặt trận B-3, hỗ trợ bởi một đại đội xe tăng. Một cuộc tấn công phối hợp giữa trung đoàn 52 thuộc sđ 320 csbv, với sự yểm trợ của trung đoàn 64 đã từng bao vây trung đoàn 45 VNCH đêm trước. 

Bên trong trung tâm hành quân của trung đoàn 44, thiếu tá Lovings và trung tá McKenna đang chuẩn bị ngủ thì đạn pháo kích nổ trên đầu. Mối quan tâm của họ trong những giờ trước đó là lực lượng lớn của địch đang tiến vững chắc hướng tới phần đông bắc của tp. Giấc ngủ của họ đã gián đoạn bởi tiếng hét "Xe tăng và bộ binh ở hàng rào kẽm gai của chúng tôi!" Lovings ko thể nào tin đó là sư thật nên ông chạy nhanh ra cổng để kiểm chứng. Ông đã tới kịp thời để thấy chiếc T-54 dẫn đầu chỉ còn cách các bunker nằm quanh trung tâm hành quân (TTHQ) 50 mét! Một cờ đuôi nheo (streamer) phấp phới bay trên pháo tháp xe tăng trong cơn gió nhẹ của sáng sớm. Một tiếng nổ từ một khẩu M-72 bắn đi từ một sĩ quan VNCH từ hầm trú ẩn trên phòng tuyến đã tức khắc khiến ông ko nhìn rõ chiếc xe tăng này. Khi khói đã tan, ông đã thấy một lổ cở đồng một đô-la bạc ở phía trước xe tăng và máy xe im lìm. Đồng đô-la bạc có hình tròn, loại sản xuất từ 1878 đến 1978, có đường kính 38.1 mm; loại sản xuất từ 1979-1999, có đường kính 26.5 mm -- người dịch. Một chiếc T-54 thứ hai ở một con đường khác trong bịnh viện đầy người đã thấy chiếc tăng bị phá hủy này. Có vẻ nghĩ rằng khu vực này chưa làm chủ bởi bộ binh bắc quân, chiếc tăng này định quay đầu lại để trốn. Nó đã trở thành một mục tiêu ngon ăn cho một xạ thủ M-72 gần đó. Thiếu tá Lovings đã chạy nhanh vào trung tâm hành quân để yêu cầu không yểm từ BTL của sđ 23. 

Chuẩn tướng Hill, cố vấn phó của QK-2 đã dậy từ sớm để bay đến chiến trường với một toán trực thăng gunship. Trong lúc bay trên khu vực, ông được Lovings báo cáo có sáu xe tăng sắp vượt qua miếng đất trống phía bắc của doanh trại bịnh viện. Ông cũng thấy bộ binh địch di chuyển xuyên qua các tòa nhà của bịnh viện. Lovings báo cho gunship biết rằng phía bắc của phòng tuyến của ông có thể bắn phá tự do (free fire). Các gunship từ trên trời nhào xuống (swoop) tấn công. Hai chiếc T-54, đang ở trong doanh trại của bịnh viện, thấy vậy đã chạy vào một số tòa nhà trống để trốn.  

Trực thăng với phi đạn TOW đã nhanh chóng xuất kích từ sân bay Pleiku ngay từ khi nhận báo cáo đầu tiên về xe tăng xuất hiện ở tp Kontum. Lúc 0600, các máy bay này đã ở phía trên của mặt trận phía bắc. Khu vực phía bắc của tp rất trống trải, ko có chỗ núp cho xe tăng, khiến chúng dễ làm mồi ngon cho các trực thăng này: hai phi đạn TOW đã bắn trúng xe tăng trong lúc chúng đang di chuyển để tấn công phòng tuyến ở đông bắc của tp. Máy bay chiến thuật, gunship, và các cố gắng của binh sĩ ở phòng tuyến đã chặn đứng (stem) cuộc tấn công của bắc quân lúc 1000g. Lúc 0615 g ngày 27, quân bạn lần nữa bị tấn công dữ dội bởi xe tăng và bộ binh. Lúc 0715 g, kho đạn chánh ở bắc sân bay Kontum đã bị đạn cối bắn trúng và phát nổ. Một đạn pháo văng ra từ kho đạn này đã trúng bồn chứa xăng gần đó, khiến bồn xăng cháy và khói che khuất tầm nhìn. 

Vào buổi sáng ngày 27, bộ binh của bắc quân vẫn cố thủ ở doanh trại cực bắc này. Chúng cũng tiếp tục quấy rối sân bay và tạo áp lực lên ĐPQ ở phần phía đông của tp. Vào giữa ngày, Bắc quân đã lập các toán kháng cự nhỏ khắp mặt trận phía bắc này. Các cuộc không kích của không quân Mỹ và VNCH và không kỵ Mỹ đã hỗ trợ Nam quân. Trong buổi chiều một trung úy VNCH đã phát hiện (spot) một lực lượng lớn của địch và yêu cầu không quân VNCH oanh kích. Vì ko có máy bay VNCH khả dụng nên ông đã liên lạc một cấp chỉ huy bộ binh và cùng ông này hướng dẫn máy bay Mỹ oanh kích giết chết 60 bắc quân. Gần vị trí chiến đấu của trung đoàn 53 ở bắc sân bay, vài khẩu phòng không 12.8 ly của bắc quân đang bắn liên tục vào các chiến đấu cơ. Hai phi cơ A1-E Skyraider của VNCH đã nhào lộn ném bom bất chấp hỏa lực phòng không rất nguy hiểm. Cuối cùng họ cũng làm câm họng vài khẩu phòng không kể cả một phòng không 23 ly. Nói thêm: Theo wikipedia, ZU-23-2 là đại bác phòng không 23 ly hai nòng, do xe kéo, được LX sản xuất. Tầm bắn 2 - 2.5 km, bắn mục tiêu bay cao 1.500 - 2.000 m. Tốc độ bắn tối đa là 2.000 viên/giờ, thực tế 400 viên/giờ. Mỗi nòng có kèm thùng đạn 50 viên. Súng nặng 0.950 tấn. Do 83/100 máy bay Mỹ rơi ở VN là do phòng không mặt đất, nếu ko kể phòng không 37 ly, loại 23 ly này đã bắn rơi hàng trăm chiếc.                 


Lúc 1800 g, trực thăng VNCH đã bắt đầu chuyển hàng tiếp tế cần thiết từ sân banh tới các BCH trung đoàn. Tại bãi thả, Trung tá Grant đã điều động lính VNCH nhanh chóng bốc dỡ đồ tiếp tế, vì chậm chạp sẽ bị pháo kích. Sau công tác này, trên đường về hầm trú ẩn, ông đã bị thương ở đùi trên do pháo kích. 

Đại tá Bá đã quyết định siết chặc tuyến phòng thủ của tp lần nữa. Ông đã ra lịnh cho trung đoàn 45 rút khỏi CCHL November, ở phía nam Võ Định, và di chuyển về một tuyến phòng thủ chặc chẻ hơn ở quanh tp. Mục đích của ông là ngăn ngừa phòng tuyến bị xuyên thủng lần nữa và cũng cho phép ông xử dụng B-52. Tối hôm đó tướng Toàn cũng đã đồng ý cho rút thêm trung đoàn 53 để tăng cường cho phòng tuyến này. 

Bộ binh bắc quân giờ đây đã cố thủ trong công sự tại doanh trại của bịnh viện, chỉ cách phòng tuyến nam quân 40 mét. Trừ những vụ chạm súng nhỏ và vài đạn cối, buổi tối đã đi qua mà ko có biến cố nào. Trong buổi tối, các máy bay AC-47, AC-130 đã yểm trợ cho lực lượng phòng thủ. Lúc 0345 g ngày 27, pháo địch đã gia tăng suốt chu vi phòng thủ phía bắc; từ 300 đến 400 quả đã rơi tính tới rạng đông. Lúc 0500 g, các thành phần của trung đoàn 53 bảo vệ doanh trại của thiết đoàn 14 bị đặc công tấn công. Sau đó là một cuộc tấn công vào các vị trí của trung đoàn 44 ở phía tây. Vì thời tiết xấu khiến máy bay chiến thuật ko thể yểm trợ, oanh kích bằng Sky Spot hay kỹ thuật thả bom tọa độ, dựa vào radar nên rất chính xác -- người dịch, được dùng mỗi 20 phút từ 0350 g đến 1230 g trên những mục tiêu đã dự phòng dọc theo phòng tuyến này. Các thành phần của trung đoàn 44 và 53, hỗ trợ bởi chiến xa của thiết đoàn 8, đã cố gắng đẩy lui địch ra khỏi những doanh trại ở phía bắc. Cùng lúc đó, các lực lượng tiểu khu đã chiến đấu để dành giựt từng nhà tại khu vực phía nam của tp, nơi bắc quân vẫn còn cố thủ trong các công sự tại một trường học và một vài nhà ở rìa của sân bay. 

Tại một tháp nước, có khả năng khống chế khu vực bịnh viện, một toán bắc quân, với súng đại liên đã chận đứng một đv bộ binh Nam quân định tái chiếm bịnh viện. Hai chiếc tăng M-41, ko thể đánh sập tháp nước bằng bắn trực tiếp. Cuối cùng, một trực thăng gắn phi đạn TOW, trước đó vừa tiêu diệt một phòng không 23 ly, đã bắn một phi đạn TOW vào tháp nước và phá hủy khẩu 12.8 ly này. Trung đoàn 53 đã tiến quân xuyên qua doanh trại của thiết đoàn 14 và tiến thêm 500 mét trên phi đạo bằng cách đánh cận chiến suốt ngày. Các máy bay A-37, A1-E Skyraider và trực thăng Cobra đã tàn phá doanh trại này của thiết giáp, biến nó thành đống gạch vụn.

Pháo binh của bắc quân đã chuyển việc tấn công các mục tiêu quân sự như sân bay hay doanh trại sang pháo kích ko phân biệt vào khu vực dân sự làm chết trên 100 dân. Trong buổi chiều, Kontum được tăng cường bởi TĐ 3/47, thuộc sđ 22, từ Pleiku. Trung đoàn 45, trong lúc rút về phòng tuyến chung quanh tp, đã gặp kháng cự mạnh mẻ của một TĐ bắc quân núp trong hầm hào kiêng cố và ko thể vào tp cho tới ngày 29/5. Vào đêm của ngày 28, tình hình này trở nên nghiêm trọng; bắc quân vẫn cố thủ trong khu vực mà họ đã cố thủ vào đầu ngày. Thành công duy nhứt của Sư đoàn 23 là đã chận đứng hai đợt xâm nhập vào các doanh trại ở phía bắc và khu vực phía nam. Bắc quân đã gặp khó khăn khi tiếp tế các đv đã xâm nhập do B-52 oanh tạc từng giờ; họ buộc phải để đồ tiếp tế ở xa tp. Lúc đầu mỗi người lính csbv đã được cung cấp ba ruột tượng chứa đầy gạo. Các đv vận tải đã phải mang lương thực và đạn dược tới tiền tuyến. Tuy nhiên các cuộc oanh kích liên tục đã làm gián đoạn đường điện thoại và các đv vận tải đang cố gắng tới tuyến đầu. Tóm lại, bắc quân phải nhanh chóng thắng lợi hay rút quân về các thánh địa ở vùng rừng núi để tái tiếp tế và bổ sung quân số. 

Sư đoàn 23 VNCH cũng đã bắt đầu gặp nhiều khó khăn (feel the pinch) do thiếu tiếp tế. Để đối phó điều này, máy bay C-130 đã thả dù tổng cộng 64 tấn đạn, mà 3/4 đã được thu hồi bởi quân bạn. Ngày 29/5 chỉ có những hoạt động quân sự nhỏ như bắn sẻ và pháo kích lai rai, với chỉ 30 đạn pháo vào tp tính tới giữa chiều. Cuộc phản công của VNCH đã bị cầm chân bởi bắn sẻ từ hệ thống hầm hố vững chắc của địch. Dù 60 phi xuất của đủ loại máy bay đã phá hủy 39 hầm hố, tình trạng cù cưa (stalemate) này đã tiếp tục suốt buổi tối. Ngay sau nửa đêm, BCH trung đoàn 44 và 53 đã bị pháo cối dữ dội. Ba máy bay AC-130, nhờ ứng trực sẵn trên trời, đã kịp thời xuất hiện và bắn phá các vị trí nghi ngờ của súng cối. Tuy nhiên, 50 tới 60 viên đã rơi trong nửa giờ kế, theo sau là một tấn công của bộ binh bắc quân đánh vào chu vi phía bắc. Cuộc tấn công này đã phối hợp với một tấn công vào phía nam của sân bay, khi địch đã cố gắng lần chót để bắt tay với quân đã xâm nhập. Một đạn cối của csbv bay lạc đã rớt vào phần còn lại của kho đạn nằm giữa quân phòng thủ và bắc quân. Đạn nổ và đám cháy tạo ra đã vô tình ngăn chặn cuộc tấn công của địch và gây nhiều thương vong cho chúng. 

Ngay sau hừng đông, các lực lượng của sđ 23 lần nữa đã phản công tại các doanh trại ở phía bắc, từng chiếm cứ bởi bắc quân. Quân bạn đã dùng lựu đạn và kỹ thuật cá nhân để dành giựt từng hầm hố vì các công sự này quá vững chắc và khó thấy bởi pháo binh hay không quân. Nói thêm: theo một số cựu chiến binh thuộc bộ binh VNCH, ở một số nơi, hầm trú ẩn hay bunker của bắc quân ngụy trang rất kỹ và ngang với mặt đất, do vậy, nếu ko lục soát kỹ lưỡng, họ dễ dàng bị đánh tập hậu. Ở dưới đất mà ko dễ dàng thấy các bunker này, huống hồ có thể thấy chúng từ trên trời, dù máy bay bay chậm hay bay thấp -- người dịch.

Lúc 1430 g ngày 30/5, tổng thống Nguyễn văn Thiệu đã bay tới tp Kontum giữa hỏa lực lẻ tẻ của cối và hỏa tiển của địch, để nâng cao tinh thần binh sĩ. Thiệu đã thăng cấp chuẩn tướng cho Bá giữa tiếng đạn ầm ì. Thiệu sau đó đã nói chuyện với nhiều chiến sĩ để cổ võ họ. Từ từ nhưng chắc chắn, quân bạn đã tái chiếm các hầm hố. Hai xe tăng T-54 đã phá huỷ bởi M-72 giữa đống gạch vụn của bịnh viện. Các tên bắn sẻ đã rút chạy (rout) khỏi các hầm hố. Khi trung đoàn 44 tiến về phía trước, quân bạn đã thấy nhiều quân địch rút về đông bắc. Đây là con đường duy nhứt để rút lui vì quân bạn đã chiếm giữ ba phía còn lại. Không kỵ Mỹ và các tiền sát viên không quân cũng đã báo cáo địch đang rút khỏi trận địa. Vào cuối ngày một số lính csbv vẫn còn ở Kontum, nhưng vị trí của họ ngày càng suy yếu.

Vào giữa ngày của ngày 31/5, Vann đã nói rằng đánh lớn ko còn, chỉ còn những ổ kháng cự lẻ tẻ trong tp. Rất cần tái tiếp tế và thay quân, quân csbv đã buộc phải rút lui. Gần 4.000 xác bộ đội bắc việt nằm rải rác khắp trận địa. Nam quân cũng bị thiệt hại nặng, nhưng họ đã làm chủ chiến trường. Cuộc kháng cự của bắc quân thực tế đã chấm dứt vào ngày 10/6/1972. "

. . . 

Chuyển ngữ từ trang K- 20 đến K-25 của chuyên khảo đã dẫn trong các bài trước.

San Jose ngày 6/10/2023.

Tài Trần.

Thursday, September 28, 2023

 phòng thủ năng động.

Cuộc tấn công sang Lào năm 1971, như cuộc tấn công sang Cam-bốt năm 1970, đã có ảnh hưởng đến quân sử năm này. Vào lúc đầu năm, BTL quân viện Mỹ tại Việt Nam hay MACV dưới tay có 54 TĐ bộ binh và chiến xa, nhưng phần lớn những đv này chẳng bao lâu sẽ ko còn sẵn sàng chiến đấu (would stand down) mà chuẩn bị rời VN. Phần lớn 330.648 quân nhân Lục quân và 25.394 quân nhân TQLC suốt năm đó sẽ tham dự các cuộc hành quân có tên chung là Keystone để chuẩn bị về nước Mỹ. Phần lớn cờ hiệu của đv của những quân nhân nhân này sẽ được đưa về Mỹ; rất nhiều các trang bị và doanh trại của họ sẽ được chuyển giao toàn bộ cho Nam Việt Nam.  

Suốt năm 1971 rất ít hoạt động quân sự của Mỹ tại Nam VN vì cuộc rút quân đang tiếp tục. Một số cuộc hành quân tổ chức bởi sđ 101 nhảy dù chống lại các lực lượng csbv ở vùng biên giới hiểm trở của Việt Nam, nhưng đối phương đã tiếp tục lẩn tránh chạm súng. Những đv csbv này vẫn còn chịu thiệt hại từ các cuộc hành quân trước đó đánh sang Cam-bốt và Lào và chỉ có thể thực hiện một số tấn công chọn lọc bằng hỏa tiển và cối. Tại QK-3, các chạm súng giữa quân Mỹ và Bắc quân rất ngắn ngủi (fleet), trừ các cuộc đụng độ với hệ thống các hầm hố, diều đó chứng tỏ Bắc quân đang tránh chạm trán với quân Mỹ.

Trong những năm MACV đã trải dài những lực lượng chiến đấu còn lại 

Wednesday, September 27, 2023

 

4 Common Toilet Noises and What They Mean

PLUMBING REPAIRPLUMBING TIPS

Common Toilet Noises

Have you ever heard some odd noises coming from your toilet? They might occur after it’s flushed or even for no apparent reason.

It’s easy to start worrying when you hear an odd sound, but the good news is that most toilet noises are nothing to worry about. However, you should know what each noise can mean.

Are you looking to find out what it means when your toilet starts making noises? Read on and we’ll tell you all about it.

1. Constant Running

When you flush your toilet, you hear a running sound that indicates that the water is filling back up. This is normal to hear after flushing.

The trouble starts when the running noise sticks around for too long or never shuts off. While this can be worrying, it’s almost never a serious issue.

When you hear this, it can mean one of a few things.

In the back of the toilet, you have a flapper chain. If this becomes too strained or tight, it can cause the valve to stick open. This is what produces the sound.

It can also indicate an issue with the valve inside of the tank. In this case, the valve tank would not stop the water from leaking from the bowl.

One last way that it can cause issues is by the float. If it isn’t set right, it can cause the toilet to run constantly.

These are all important parts of the toilet to keep an eye on. Fortunately, it’s easy to watch for these problems.

If you think it might be the flapper chain, you can wiggle it around. You should feel slack in the chain. If there isn’t any, then it will need to be loosened.

For a valve issue, you’ll need to check it. Be sure that the valve is closing so that the water doesn’t escape.

To fix a float issue, the height will need to be adjusted.

If you can narrow down the causes, it will give you a much better chance of fixing it. Or, you can have a plumber come in to do it for you.

2. Hissing Noise

Hearing a hissing noise from your toilet might be scary, but it’s typically a less serious issue. If you do hear this, you should still do some investigating.

This sound is usually caused by your flapper. Over time, it can break down and stop functioning as it should. However, this isn’t the only thing that can cause issues.

Your toilet’s ballcock can also be the culprit here. If it isn’t adjusted to the right level, then it can cause trouble.

If your valve or flapper is the issue, then you may need a replacement. A qualified plumber can help with this.

A ballcock issue can often be fixed with an adjustment.

If your toilet is making a hissing noise, then you should always look for these problems.

3. Your Toilet is Making a Bubbling Noise

Gurgling or bubbling is a noise that can be difficult to get to the bottom of. This is because many issues can result in you hearing this noise.

One of the most common issues that can cause this noise is a blockage. It could occur within the sewer drain, the toilet itself, or in a vent stack. The noise comes from the air in the water.

A clogged toilet is the easiest fix. A plunger can help to get rid of the clog and open up the toilet for use again.

The other issues are a little more serious to deal with.

If this is the case, it’s an issue that is best left to the professionals. You should call them in right away and refrain from using the affected toilets.

4. Banging

One of the more serious noises you can hear is banging in your toilet. Many know this sound as a “water hammer.”

When you hear this, you’re hearing the water inside of your pipes hitting the valve. The valve makes the banging noise as the water hits it.

The reason that the water does this is due to the high pressure inside of the pipes.

While this may seem like a mild problem, it can be very detrimental to your pipes. The more that this happens, the faster your pipes will start to deteriorate.

The fix for this noise is to completely drain the pipes. Once this is done, then they also need to be refilled.

If this is the issue for you, it can be beneficial to call in a plumber to help you. This is a sensitive issue that should be dealt with as soon as possible.

How Can I Prevent These Sounds in the Future?

Hearing any of these sounds coming from your toilet can be scary.

The best way that you can prevent these noises in the future is to invest in regular maintenance. With this, you’ll be able to catch these problems before they have the chance to happen.

certified plumber can carry out regular maintenance to check for this.

You can also do a few things yourself to prevent these noises.

One good example is to watch what is flushed. Don’t flush anything in the toilet that should go in the garbage. It could cause a blockage that could cause the bubbling noise that was mentioned earlier.

You can also keep an eye on the valves, chains, and general condition of the toilet. If you notice that something isn’t working as it should, you should get it checked by a plumber immediately.

With these tips, your toilet will be working its best.

Have Toilet Noises Kept You Awake at Night?

When you hear toilet noises that you’ve never heard before, it can be easy to panic. Most of the time, they’re easy fixes. But sometimes, you will need to get a plumber in as soon as you can.

Now that you know what each noise means, you’ll be prepared when you hear one of them.

If your toilet is making noise, it may be time to call a professional in Orange County. Give us a call today to see how we can help you!

7 Comments
  1. Mike Stassi

    My toilet seems to want to flush twice. It flushes fine, then more water as it’s filling up wants to also go down making a googling noise. Any suggestions?