Friday, January 12, 2018

Xây dựng tính chính danh cho chế độ

Nguồn : tintuchangngayonline.com



Qua những vụ bắt giữ và xét xử Phan Văn Anh Vũ, Trịnh Xuân Thanh và Đinh La Thăng, Đảng Cộng sản Việt Nam đang tìm cách lấy lại niềm tin nơi các đảng viên và nhân dân lâu nay vốn đã mất tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng. Nói cách khác, đảng đang tìm cách lấy lại tính chính danh cho sự lãnh đạo tuyệt đối của mình qua giai đoạn “phá chưa từng có” vừa qua.

Hình minh họa
Tính chính danh chế độ thường được ghi nhận qua hai mặt: (1) một nền chính trị ổn định, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ, (2) Chính phủ điều hành thành công một nền kinh tế phát triển bền vững.

Các vụ bắt giữ và xét xử nói trên vừa có tính chính trị vừa mang tính kinh tế. Thất bại cả chính trị lẫn kinh tế cho thấy chế độ Cộng sản không có chính danh lãnh đạo.

Việc phát hiện các vụ tham nhũng, xét xử đúng người, đúng tội là việc làm cần thiết, nhưng những việc đó chỉ là đánh vào ngọn mà không trị được gốc. Diệt được Thanh hay Thăng này sẽ lại nẩy sinh hàng chục, hàng trăm Thanh hay Thăng khác vì cái gốc sinh ra tham nhũng và thối nát chính trị vẫn còn đó.

Vậy gốc nằm ở đâu?

Nhiều người đã nói tới, đó là cơ chế độc tài nhất nguyên tuyệt đối. Các nước chung quanh Việt Nam dù không phải chế độ Cộng sản cũng đã từng kinh qua các giai đoạn độc tài tương tự: Đài Loan, Hàn quốc, Nam Dương (Indonesia)... Thế nhưng, trong hai thập niên 80 và 90 thế kỷ trước, nhân loại đã chứng kiến tại các nước nói trên, từ nhân dân tới chính quyền đã từng bước thay đổi trong ôn hoà, chuyển từ độc tài nhất nguyên sang cơ chế đa nguyên, tôn trọng các ý kiến khác biệt, tôn trọng quyền tự do hội họp, báo chí, độc lập hoá quốc hội và tư pháp.

Cuối thế kỷ 19, triết gia người Anh, ông Lord Acton đã nói: “Quyền lực có xu hướng tha hoá; quyền lực tuyệt đối thì tha hoá cũng tuyệt đối”. Do đó, quyền lực, nhất là quyền lực tư đảng nếu không được kiểm soát chặt chẽ bằng những định chế độc lập, chắc chắc sẽ xảy ra việc lợi dụng quyền lực, sinh ra tham nhũng.

Công đảng

Muốn tiêu diệt tham nhũng tận gốc, đem lại tính chính danh cho chế độ, cần phải biến tư đảng thành công đảng - công đảng hoá toàn dân (không phải Cộng đảng hoá) - để mọi người, Cộng sản hay không Cộng sản, đều có thể tham gia chính quyền, tham gia vào việc hoạch định các chính sách tạo công ích và công lợi cho toàn dân, thay vì chỉ tạo quyền và lợi cho tư đảng Cộng sản. Khi người dân có quyền tham gia vào hệ thống chính trị, họ sẽ giúp tìm ra các định chế kiểm soát quyền lực và minh bạch tài chính, đẩy lùi tham nhũng và tiêu cực bởi đó chính là đời sống của họ. Nhân dân sẽ có cơ hội quyết định sinh mệnh chính trị của mình (không phải cơ chế “xin-cho” như hiện nay). Khi đó, “nhân dân có quyền và nhà nước có lực”. Sự cầm quyền của nhà nước rất chính danh, được toàn dân ủng hộ và bảo vệ chứ không bị chống đối, vì do chính nhân dân tin tưởng trao gửi. Chính quyền công đảng, thay vì là công cụ cai trị của tư đảng (ruler), đóng vai trò cơ cấu điều hành (coordinator) các sinh hoạt xã hội, tạo cơ hội cho mọi người tham gia vào guồng máy chính trị và kinh tế để cả xã hội cùng tiến. Dân càng có quyền thì nhà nước càng có lực, tính chính danh lãnh đạo đất nước càng cao.

Trong thế giới hiện đại hậu công nghiệp, dân chủ tập trung nhất nguyên đã quá lỗi thời, các chế độ chính trị trên thế giới ngày càng hướng tới dân chủ, đúng với nghĩa dân làm chủ. Theo Samuel Huntington, làn sóng dân chủ hoá thứ ba đã đến với nhân loại trong thế kỷ vừa qua. Người ta nói tới đa nguyên, nói tới dân chủ hành quyền (empowered democracy), nói tới dân chủ tham gia (participatory democracy) chứ không chỉ bàn về dân chủ một cách chung chung. Dân chủ hoá chế độ với sự tham gia tích cực của toàn dân trong guồng máy chính trị đã trở thành xu thế lịch sử và thời đại. Xu thế thì không thể đảo ngược. Thuận theo xu thế là thuận theo hướng nhìn chung và hoà vào trào lưu tiến bộ chung của toàn thể nhân loại chứ không phải chỉ của tư bản, và cũng là thuận theo lòng dân, được nhân dân ủng hộ.

Bình đẳng cơ hội

Một trong những bước chuyển đổi cơ chế trong ôn hoà, diệt tham nhũng tận gốc để lấy tính chính danh cho chế độ mà không tốn nhiều công sức, lại được sự hỗ trợ của nhân dân mà Đảng Cộng sản có thể chủ động được, là tạo bình đẳng cơ hội cho mọi người. Bình đẳng chính trị cũng như kinh tế.

Bình đẳng có ba loại: bình đẳng cơ hội (opportunity), bình đẳng nghĩa vụ (obligation) và bình đẳng quyền lợi (benefit), trong đó bình đẳng cơ hội là quan trọng nhất. Ai cũng có nghĩa vụ đóng thuế, ai cũng được quyền chăm sóc khi mất việc, khi già yếu. Nhưng muốn bảo đảm được hai điều này, cần phải xây dựng bình đẳng cơ hội.

Bình đẳng cơ hội chính trị là phải bảo đảm rằng mọi người dân bình thường, bất kể quá khứ và xuất thân, Cộng sản hay không Cộng sản, đều có quyền tham gia hệ thống chính trị quốc gia, từ địa phương tới trung ương. Nhân dân ai cũng có quyền đề-, ứng- và bầu-cử các chức vụ công quyền, hay được tự do chọn lựa người đại diện xứng đáng cho tiếng nói của họ trong quốc hội, nơi được coi là cơ quan quyền lực cao nhất quốc gia. Hiện nay, các cuộc hiệp thương tại địa phương, hoặc gạt hết những người không Cộng sản ra ngoài, hoặc sắp xếp, mua bán ghế nội bộ, do đó quốc hội chỉ toàn là người do đảng đưa vào, nếu có vài người ngoài đảng thì cũng chỉ để trang trí cho có vẻ dân chủ. Dân chủ như thế là dân chủ giả hiệu. Quốc hội như thế chỉ là công cụ của đảng, không phải là nơi nhân dân thực hiện quyền làm chủ đích thực của mình. Ông Nguyễn Phú Trọng từng nói Hiến pháp đứng sau Cương lĩnh Đảng, hàm ý cương lĩnh tư đảng Cộng sản còn cao hơn, quan trọng hơn cả hiến pháp, một điều trái ngược với các quốc gia mà nhân dân là chủ nhân đích thực của đất nước. Đảng vẫn tiếp tục xử lý nội bộ đối với đảng viên trước khi đưa ra xét xử bằng luật pháp quốc gia, không phải là bình đẳng chính trị.

Bình đẳng cơ hội kinh tế cũng tương tự bình đẳng cơ hội chính trị, tức ai cũng có quyền tham gia vào các hoạt động kinh tế, ngoại trừ những khu vực hay công trình có quy mô cấp quốc gia mà tư nhân không đảm trách nổi. Bình đẳng kinh tế còn có nghĩa không ai hay nhóm nào bị phân biệt đối xử, ngoại trừ những chính sách khuyến khích đầu tư được quốc hội do dân bầu ra, thông qua.

Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với doanh nghiệp tư nhân là không bình đẳng về cơ hội kinh tế.

Trong nội bộ hai cơ quan bảo vệ đảng và chế độ cũng xảy ra tình trạng “trâu buộc ghét trâu ăn”. Tổng cục 5 (tình báo công an) tranh ăn với Tổng cục 2 (tình báo quân đội). Trong vụ án Trương Văn Cam (Năm Cam), theo những người hiểu chuyện thì Cục 2 (sau là Tổng cục 2) của phe quân đội (không được ăn) đánh phe công an vì gần như toàn bộ ngành công an được Năm Cam chi tiền hậu hĩ, hàng loạt tướng tá công an phải vào tù. Trong vụ Trịnh Xuân Thanh, phe công an được cho là phỗng tay trên phe quân đội, đưa mật vụ sang tận Đức bắt ông ta về “đầu thú” khiến mâu thuẫn giữa hai tổng cục này càng nặng thêm, không thể giải quyết. Theo nhiều nguồn tin, tình hình chính trị thối nát do đấu đá khốc liệt để tranh giành quyền lợi đã lộ ra đại gia địa ốc Phan Văn Anh Vũ. Qua các công ty bình phong của Tổng cục 5 Bộ Công an, Vũ đã phất lên nhanh chóng, biếu cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh xe tiền tỷ và nhà cửa, gây mâu thuẫn với Chủ tịch UBND Huỳnh Đức Thơ. Các đời chủ tịch trước ông Thơ cũng bị Tổng cục 5 thao túng. Nguyễn Xuân Anh bị hạ bệ nên Vũ (nhôm) phải tẩu thoát.

Nếu không xây dựng bình đẳng cơ hội, những vụ việc nghiêm trọng như Trịnh Văn Chiến ở Thanh Hoá, Nguyễn Sỹ Quý ở Yên Bái, Nguyễn thị Kim Tiến với công ty VN Pharma buôn bán thuốc ung thư giả ở Bộ Y tế, hay Võ Kim Cự cho phép Formosa đầu tư vượt quyền hạn, gây nhiễm độc biển và hàng trăm vụ đấu đá nội bộ khác tại các địa phương tiếp tục xẩy ra, có thể phải giải quyết bằng cách thanh toán nhau đẫm máu khiến nhân dân càng mất niềm tin và nguy hại tới tính chính danh của chế độ.

Tại Mỹ, nhờ bình đẳng chính trị mà ngay những người mà tổ tiên từng là nô lệ có thể trở thành tổng thống, hay nhiều người thuộc các sắc dân thiểu số cũng có cơ hội trở thành dân biểu, nghị sĩ trong quốc hội. Bình đẳng kinh tế tạo cơ hội cho những công dân bình thường như Bill Gates, Steve Jobs hay Mark Zuckerberg trở thành những doanh nhân thành đạt và giầu có nhất nước.

Không thể chữa trị ung thư hệ thống, ung thư cơ chế bằng phương pháp trị liệu ngoài da như những vụ Phan Văn Anh Vũ, Trịnh Xuân Thanh và Đinh La Thăng.

Nhân dân Việt Nam không thể nhắm mắt thụ động mãi để Cộng sản dắt mũi đi ngược trào lưu lịch sử. Đảng Cộng sản không nhìn ra trào lưu hay không dám thay đổi, biến tư đảng thành công đảng, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người, toàn dân phải chủ động đứng lên chuyển đổi sinh mệnh chính trị của mình.

Tạ Dzu

(Dân Luận)
ngày cô hương đi mỹ
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1295118083835348&set=a.197514143595753.57573.100000115071295&type=3

Thursday, January 11, 2018

Tôi sẵn sàng bắn bỏ những kẻ nào tham nhũng , 
dù chỉ một xu . Tôi sẵn sàng chết vì đất nước này -- 
Tổng Thống Phác Chính Hy , người đã biến Hàn 
Quốc thành cường quốc thế giới .

                       




 


Thần may mắn chẳng lẽ cứ đứng về phía CSVN !?! 
(Đăng lại sau khi nghe tin Lê Đức Anh chết còn cựu TT Phan v Khải sắp chết) .
Họ đã may mắn QUÁ NHIỀU : 
- Năm 1945 , chỉ với một nhóm cán bộ cốt cán (cứ 1 ngàn người theo Việt Minh , chỉ có 1 là CS thực sự) , VM đã chiếm chánh quyền tại Hà Nội vào ngày 2/9 .
- Vào năm 1954 (khi Mỹ ko dùng bom nguyên tử tại ĐBP theo yêu cầu khẩn thiết của Pháp . Pháp gửi BT Quốc phòng sang Mỹ cầu viện) .
- Trận Mậu Thân 1968 (khi gần như toàn bộ lực lượng MTGPMN bị nướng sạch *) .
-Trận B-52 ném bom xuống Hà Nội Giáng Sinh 1972 (khi Mỹ chấm dứt quá sớm) .
- Trong trận chiến 1975 khi TT Thiệu bỏ rơi Quân Khu 2 sau khi mất Ban Mê Thuột , mở đầu chọ sự sụp đổ dây chuyền của các tỉnh/thành VNCH ; sau đó , CSBV chỉ gặp sự kháng cự mãnh liệt ở Xuân Lộc , Bến Tranh (trên QL 4) và Long An ; còn các nơi khác đã rút bỏ trước đó mấy ngày .
Tóm lại thần may mắn đã về phe họ NHIỀU LẦN , ko biết lúc nào thần sẽ Say Good-Bye (giả từ) họ ? Vì họ đã ăn quá no , nên rời bàn tiệc để đi chổ khác , để khỏi bị ăn đòn : đó là sự thực chứ ko phải dọa dẩm . Vì HỌ ĐÃ HẾT THỜI .
SJ ngày 11/1/2015
============
* VIẾT THÊM VỀ TRẬN MẬU THÂN : MỘT BƯỚC NGOẶT TRONG CUỘC CHIẾN VN .
Sau khi gần như toàn bộ lực lượng MTGPMN bị nướng sạch khi tấn công vào các TP ở miền Nam , nhưng do phong trào phản chiến quá mạnh , Mỹ bắt đầu rút quân , dự HĐ Paris dẫn đến HĐ Paris 1973 với nhiều bất lợi cho VNCH như chấp nhận cho CSBV duy trì quân tại miền Nam , thay vì phải rút về miền Bắc , v.v...
TT Thiệu đã thấy điều này nhưng Mỹ dọa "sẽ cắt viện trợ , v.v..." nếu VNCH ko ký và hứa sẽ đưa không quân Mỹ trở lại VN nếu CSBV xâm lăng miền nam . Nhưng do vụ Watergate , Nixon phải từ chức , nghĩa là ko thể thực hiện cam kết trên đây . Đã vậy vụ khủng hoảng dầu hỏa năm 1973 đánh mạnh vào kinh tế Mỹ và VNCH . (Vì khi xăng lên giá thì mọi thứ lên giá . Tôi nhớ lúc đó rất nhiều trẻ em phải tách vỏ cây để nhóm bếp , v.v..) . Sau khi Phước Long thất thủ , khi biết Mỹ bỏ rơi VN , TT Thiệu đã cử Nguyễn Tiến Hưng sang Mỹ và nhiều nước để vận động và kiếm viện trợ : Á Rập Sê Út đồng ý nhưng giờ chót vua Faisal bị ng cháu ám sát .

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2257272464286567&set=pcb.2257249280955552&type=3

Wednesday, January 10, 2018

Việt Nam Cộng Hòa và những định mệnh xui xẻo


Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958

Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai" sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hòa, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa.
Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu 1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông Kissinger?
Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này thích hành động bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động một mình:
"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.
Nhân dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận long đong của cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.

Khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ

Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins lẫn Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và Smith." Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống, không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực TT Diệm);

Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963Bản quyền hình ảnhYOUTUBE
Image captionCố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963

Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our Endless War - Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì không biết tin ông Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một cách quanh co: "Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả." Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hòa với cả Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn vấn đề thời gian tính."

Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963 ở Dallas

Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên thấp nhất' nên khi thông điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa trang cho hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì "khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.
Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: "Quân đội phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu," rồi thêm: "Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố."

GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry IIBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionGS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry II

Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng "Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý! "Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ Ngô," ông Dunn phàn nàn.
Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11, 1963.
Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là "nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau" là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:

Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoàiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionBà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoài

"Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác."
Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên "Chúng tôi không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: "Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại ông..."
Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói "Khỏi phải lo, đã có người rồi."

Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hòa

Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này ông đã đảo ngược "chính sách ngăn chặn Trung Quốc" (containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).
Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú 'sốc' siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.

Tổng thống Johnson và Tổng thống ThiệuBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu

Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản." Vì cầu không xong, cho nên:
Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì "trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một trái bom nữa rơi vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động Quân."
Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin "có số lính người Thượng (Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt Nam bằng máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số người dân Việt Nam hôm nay.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.