Sunday, December 15, 2013

Miến  Điện năm 1995 .
Nguồn : Nat'l Geographic July 1995 .

Hình 1 : Ở một đền thờ tại Mandalay (1) , những ảnh của các sư bao quanh ảnh của Aung San – vị anh hùng đã bị sát hại năm 1947 khi thương thuyết cho độc lập của Miến – và con gái của ông , bà Aung San Suu kyi . Một vài người đã suýt đi tù hay tệ hơn khi đề cao cha con họ . Năm 1990 , đảng chủ trương dân chủ của Suu Kyi đã thắng cuộc bầu cử tự do đầu tiên trong 30 năm , nhưng ngay tức khắc bị giải tán bởi phe QS . Bị giử tại nhà ngay trước cuộc bầu cử , Suu Kyi đã đc trao Giải Nobel về Hòa bình năm 1991 .

H 2 : Bằng sự khiêm nhượng để có bửa ăn sáng , các nhà sư Phật giáo , từng thề chối bỏ mọi của cải , nay ban bố công đức (bestow merit) cho những ai cung cấp bửa ăn cho họ . Theo truyền thống , phần lớn đàn ông Miến dành ít nhứt vài tuần trong cuộc đời để sống trong chùa . (theo PG Tiểu thừa/Theravada , trước khi có gđ , phật tử phải sống ở chùa vài tuần để tu tập , v.v....- Tài) . Nhiều sư đã đi tù vì tham gia biểu tình .
 
H 3 : Nối kết với quá khứ , 2 phụ nữ dân tộc Padaung gần tp Loikaw ở đông Miến mang vòng cổ bằng đồng (brass) nặng nề , theo huyền thoại để ngăn ngừa cọp dử . Thêm từng cái một vào 1 lúc nào đó ở ấu thơ , những vòng này không làm căng cổ nhưng tác động lên xương cổ và xương sườn . Tuy rất hiếm ở Miến , việc đeo vòng lại gia tăng ở biên giới Thái- Miến , nơi mà 1 số dân Padaung đang sống . 1 phụ nữ có thể kiếm 40 đô/tháng bằng cách để cho du khách chụp hình – họ đã dùng quá khứ kỳ lạ của họ như một cách sống trong giai đoạn khó khăn hiện tại . 
 
H4 . Sau khi cho con ăn sáng , ng phụ nữ này biến cái bàn ngoài trời thành quán ăn vệ đường . Những nơi như vầy là một trong rất ít địa điểm mà một du khách có thể thưởng thức món ăn đặc trưng của Miến , vì phần lớn nhà hàng thông thường ở Rangoon đều bán thức ăn TQ hay Ấn . Ở nhà , các gđ ăn cơm , cá , gà , rau có trộn với ngapi – một loại mắm tôm của người Miến . 

(1) Mandalay là thành phố lớn thứ 2 tại Myanma với dân số 927.000 người năm 2005, vùng đô thị bao gồm các địa phương xung quanh là 2,5 triệu người. Đây là kinh đô của hoàng triều cuối của Miến Điện và là thủ phủ của Vùng Mandalay. Mandalay cách thành phố Rangoon 716 km về phía bắc. Một dòng liên tục của những người nhập cư Trung Quốc, chủ yếu là từ Vân Nam, trong hai mươi năm qua, đã định hình lại cơ cấu dân tộc của thành phố và gia tăng thương mại với TQ . Mặc dù gia tăng gần đây của thủ đô Naypyidaw, Mandalay vẫn là trung tâm chính về thương mại, giáo dục và y tế của Thượng Miến Điện ; theo wiki .

 

Monday, December 9, 2013

Chiến sĩ đồng thiếc tại tallin estonia .

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tập tin:Tallinn Bronze Soldier - May 2006 - 029.jpg
Chiến sĩ đồng thiếc tại Tallinn vào tháng 5 năm 2006
Chiến sĩ đồng thiếc (tiếng Estonia: Pronkssõdur) là một bức tượng được dựng lên tại thủ đô Tallinn, Estonia, năm 1944 khi Hồng Quân Liên Xô giải phóng Estonia. Bên dưới bức tượng có hài cốt 13 chiến sỹ Xô Viết.
Năm 1940, Liên Xô đã đưa quân vào 3 nước ven biển Baltic (Estonia, LatviaLitva) để lật đổ các chính phủ và cưỡng ép các nước này vào Liên bang Xô viết[1]
Khi quân Đức tiến vào 3 nước này trong Chiến tranh Xô-Đức thì dân chúng 3 nước chào mừng người Đức như các lực lượng giải phóng họ ra khỏi sự thống trị của người Nga[1]. Họ còn cùng các lực lượng Đức tham chiến trong chiến tranh chống Xô viết.
Khi quân Nga tái chiếm Estonia, Stalin đã lưu đày một lượng lớn dân Estonia đi lao động khổ sai và đa số đều đã chết trong thời gian này, đồng thời Stalin cũng đưa người Nga sang định cư trên những vùng đất của Estonia[2]. Sau khi ông chết, người Estonia đã được Nikita Sergeyevich Khrushchyov cho phép về lại quê hương nhưng nhà cửa của họ đã bị người định cư Nga chiếm giữ. Cuối thời Xô viết, tinh thần chống Nga dâng lên rất mạnh ở 3 nước Baltic này.
Sau khi độc lập khỏi nước Nga, hiến pháp của Estonia năm 1992 quy định chỉ có người định cư ở Estonia trước khi Liên Xô xâm lược (1940) mới được coi là người Estonia. Hiện có khoảng 1/3 dân số Estonia gốc Nga di cư sau 1940 trong thời kỳ Xô viết không có quyền công dân. Cộng đồng người Nga tự cho họ có quyền sinh sống tại đây do đã góp công giải phóng Estonia còn người Estonia coi người Nga như một lực lượng xâm lược.
Trong những dịp kỷ niệm chiến thắng 9-5, cộng đồng người Nga tụ tập tại bức tượng đồng ăn mừng trong sự căm ghét của người Estonia địa phương, do đó chính phủ quyết định di dời bức tượng đi nơi khác.
Đêm ngày 27 tháng 4 năm 2007 chính quyền Estonia quyết định di dời nó sang một địa điểm cách đó 3 km. Hành động này dấy lên làn sóng phản đối trong cộng đồng Nga tại Estonia, Nga, UkrainaBelarus. Thị trưởng thành phố Moskva kêu gọi toàn dân Nga tẩy chay hàng hóa Estonia, gọi chính phủ Estonia là chính phủ Phát xít. Tại Kiev ngày 8 tháng 5, đoàn biểu tình phản đối đã mang một chiếc đầu lợn bên ngoài có phủ quốc kỳ Estonia và biểu tượng thập ngoặc ném vào sứ quán Estonia. Tại Moskva biểu tình kéo dài nhiều ngày bao vây và đòi giải tán sứ quán Estonia. Hiện tại bức tượng đã được dựng lại ở địa điểm mới. Một số gia đình Nga yêu cầu Estonia trao trả hài cốt trong số 13 liệt sỹ dưới bức tượng.

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. ^ a b Lịch sử quan hệ Quốc tế 1919-1945, Lê Văn Quang
  2. ^ Báo Thế giới và Hội nhập số tháng 5-2007

Sunday, December 8, 2013

Kinh nghiệm chống tham nhũng của Hongkong .

http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/phan-tich/kinh-nghiem-chong-tham-nhung-cua-hong-kong-2918539.html
Những hình dưới lấy trên mạng cho thấy ảnh hưởng của Anh đối với nghành luật pháp của Hongkong : các quan tòa ăn mặc y hệt quan tòa Anh , v.v...

các quan tòa đeo tóc giả che cả gáy (full-bottomed wig) .
ông này là thư ký tòa án
biểu tượng và huy hiệu của hongkong
Đi dọc theo đường  cái  quan của Đông Dương .

Nguồn : Nat'l Geographic Aug 1931 .
H.1a : Họ phục vụ cho triều đình Bão Đại , Hoàng đế của Việt nam . Phần lớn công việc thường lệ của công sở chính quyền được tiến hành bởi lực lượng thư lại (secreterial) ; những ng này mặc áo dài đen , quần trắng , và khăn đống (turban) . Nhiều ng trong họ là quan , biểu hiện bởi thẻ bài bằng ngà voi đeo trước ngực . 
 
Hình 2b : Quần áo bằng gấm thêu (brocaded silk) , mặc bởi những nhà quý tộc này , làm nhớ lại sự cai trị của triều đại nhà Minh (Ming), khi mà ảnh hưởng của TQ rất lớn tại VN . Người bên trái là 1 quan văn (civil mandarin) bởi nón cánh chuồn (winged scholar's bonnet) , trong khi những ng bên phải là quan võ . 


 H 1c : Một vị quan trẻ đứng kế một trong 12 nhân vật bảo vệ/canh gác tại Đền Văn miếu (Literature Culture) gần Huế . (Trong hình có lẽ là ông Triệu Tử Long , một nhân vật trong Tam Quốc Chí .-Tài).
H 2 : Một công chúa trong cung vua ở Huế . Hàng thước vải xanh , bề ngang 2.50 tấc , được quấn chung quanh đầu để tạo thành một nón rộng , dẹp , theo kiểu khăn đống . Bà được phép , nếu bà muốn như vậy , đội nón màu vàng (màu của vua) , như cha và anh bà .
 H.3  : dinh của Toàn quyền tại Sài gòn . Mặc dù trung tâm hành chánh của Đông dương thuộc Pháp được chuyển từ Sài gòn ra Hà nội từ 1902 , toàn quyền vẫn ở vài tháng mỗi năm tại đây . 

H 4 : như một cử chỉ thân thiện và lời chào của các nữ sinh - độc giả của tạp chí National Geographic , những HS của một trường sư phạm ở Huế đồng ý cho chụp hình .
H5 :  Một nữ nghệ sĩ trong vai nam giới .

H 6 : Những người chạm gỗ ở Đồng Hới là thợ thủ công tài giỏi (master craftman) . Dù cho cơ xưởng của họ chỉ là 1 cái lán/túp lều (shed) và đồ nghề phần lớn là tự tạo , những nghệ nhân này sản xuất những đồ chạm (carving) tuyệt vời , với kiểu mẫu tinh vi (delicate) và phức tạp . 



 

Friday, December 6, 2013

Nghị viện nước Anh (phần 9): Một đầu mối (clue) của tính chất của người Anh. 
. . . 
Trên lý thuyết, NV của QH không thể từ chức. Nếu ông muốn điều đó, ông phải làm đơn xin làm 'cương vị người quản gia' (stewardship) của văn phòng Chiltern Hundreds.' Lý do là, trừ các Bộ trưởng, ko NV nào có thể giữ 1 chức vụ có lợi tức trong triều đình (under the Crown), và dù cho cương vị người quản gia của VP Chiltern Hundred ko còn ý nghĩa hôm nay, nhưng (cương vị này) vẫn đc xem là một chức vụ có lợi tức. Khi chấp nhận điều này, ông tự động bỏ trống (vacate) ghế của ông .
Những phong tục và truyền thống cũ xưa của Viện Thứ Dân cung cấp 1 manh mối (clue) về đặc tính của người Anh. Chúng tôi là một đất nước cổ xưa và hãnh diện về lịch sử của chúng tôi, dù trên tổng thể chúng tôi không biết một cách đáng thương (woefully) về điều này. Nước Anh, không bao giờ quí trọng (esteem) điều gì mới chỉ vì nó mới. Họ thích những truyền thống của họ và giữ gìn (điều này), miễn là làm như vậy không cản trở (impede) sự tiến bộ.
Sự yêu thích truyền thống này có hữu ích thực tế. Năm 1940, sau khi nước Pháp thua trận thì nước Anh và đế quốc đứng một mình, thế giới bên ngoài không nghĩ rằng chúng tôi có 1/10 cơ may tồn tại. Nhưng tại Anh, không bao giờ có một ý tưởng, dù cho yếu ớt nhứt, rằng chúng tôi có thể bị thua trận. Từ TIỀM THỨC, dân Anh luôn nghĩ tới những gốc rể sâu xa của lịch sử lâu dài của họ. Họ đã ko bị ai xâm lăng từ 1066, và dù cho bất cứ xui xẻo/điều xấu (odd) đến với họ, họ luôn tin tưởng rằng thế nào (somehow and other) họ cũng chiến thắng vào giờ chót.
QH gồm có Vua, các Thứ dân và Quý tộc. Không dự luật thành luật nào cho tới khi nó thông qua bởi hai viện và ký bởi Vua. Người cuối cùng từ chối ko ký 1 dự luật là Nữ hoàng Anne, nhưng theo Hiến pháp Anh, sự ưng thuận của Vua vẫn là bắt buộc.
Viện Quý tộc (House of Lords) gồm hơn 700 quý tộc/huân tước/thượng nghị sĩ (peer) với đẳng cấp khác nhau. Trước nhứt là những NV thuộc hoàng tộc (royal blood); đó là, hai người anh/em của Vua bây giờ, các công tước (Duke) của Gloucester và Windsor, và cháu trai trẻ của họ, Công tước của Kent.
Kế đó là các NV tinh thần (Lords Spiritual), Tổng Giám mục của York và Canterbury và 24 giám mục .
Thứ bậc của các NV như sau: công tước, hầu tước (marquess), bá tước (earl), tử tước (viscount), và nam tước (baron). Tất cả các NV này đều là thừa kế (hereditary), nhưng theo Đạo luật về Quyền hạn của Danh hiệu (Appellation Jurisdiction Act) năm 1876 , bảy NV về Luật, làm việc suốt đời, được bổ nhiệm do kiến thức và kinh nghiệm về luật của họ. (Còn tiếp)  

Wednesday, December 4, 2013

Nghị viện nước Anh (phần 8): Thưa Chủ tịch, tôi nghi ngờ có gián điệp.
Chỉ trong thời đại tương đối gần đây, các cuộc họp của nghị viện mới được đưa tin (report), và Viện vẫn bo bo giữ chặt (jealously guard) quyền ko cho người lạ vào nếu (người này) muốn vào.
Trong lúc chiến tranh thỉnh thoảng cần có những buổi thảo luận mật. TT Churchill, sẽ đứng dậy và nói, 'Thưa Chủ tịch, tôi nghi ngờ có gián điệp'. Nhà báo và khách được mời ra khỏi các ban-công/lô dành cho họ (gallery), và Viện đi vào họp mật.
Khi một NV nghĩ rằng đến lúc mở đèn điện sẽ nói, “ Thưa Chủ tịch, tôi yêu cầu (call for) nến.”
. . .
Các NV của QH có quyền (entitle) chặn đứng (hold up) giao thông ở khu lân cận viện Westminster như là 1 dấu hiệu rằng ko có gì đứng giữa 1 NV và nghĩa vụ của ông tại Viện Thứ dân. Các NV cũng ko bị bắt vì 1 vụ kiện dân sự miễn là ông còn trong điện Westminster, và họ ko bị kiện do phỉ báng (slander) cho bất cứ gì ông có thể nói trong khi tranh luận. (Còn tiếp) 


Nghị  viện nước Anh (phần 7): Cúi chào ghế trống. 

Bất cứ du khách đến Viện Thứ dân đều luôn ngạc nhiên (astounded) khi thấy các NV cúi chào (bow) trước ghế của Chủ tịch dù cho ông ko có mặt. Trước thời Cải Cách (Reformation) ở thế kỷ thứ 16 , Anh là một nước Công giáo La mã. Một bàn thờ (altar) và một thập tự giá đc giả định đứng sau ghế của Chủ tịch, và chiếc ghế của Nhà nguyện St. Stephen nằm ngay chỗ của bàn thờ.
NV cũng cúi chào trượng gậy quyền (mace), phải đc để trên bàn của Viện Thứ dân trước khi Viện có thể họp một cách hợp pháp (legally). Trượng gậy quyền này là biểu tượng của quyền hành ở các nghị viện (assembly) dân chủ trên toàn thế giới. Trượng hiện tại của Viện Thứ dân là trượng 'mới'; có từ 1660, vì Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland) đã chạy trốn với trượng cũ và trượng này ko bao giờ tìm thấy.
Trọng lượng của trượng mới đã mất đi 22 ounce (28.35 gr) kể từ 1660. Không ai hình như biết điều gì đã xảy cho với nó; có lẻ từ sự cọ xát (rubbing), hay đúng hơn là do cân không đúng.
NV của Viện Quý tộc mang trượng quyền (mace). Trượng là biểu tượng cho quyền lực của vua; vì vậy , nó được che khi vua vào Viện Quí tộc.
 Tôi sẽ luôn luôn nhớ về một chiều thứ Sáu khi tôi đang ngồi uống trà với vài SQ của hải quân Mỹ ở Viện. Đột nhiên, 1 cảnh sát tới phòng và la hét/thét lên (shout) vài từ gì đó. Một SQ hỏi, “ông ta đã nói gì?”. Tôi trả lời, “Ông nói, 'Ai về nhà'? "
Câu này nhắc nhớ ta về thời đại mà vùng chung quanh (environs) của Điện Westminster thì đầy rẫy trộm cướp (robber and thief), và cứ sáu NV, dẫn đầu bởi một đứa trẻ vác cuốc (linkboy) với 1 bó đuốc, sẽ quyết định cùng nhau về nhà để cùng đc bảo vệ.
Cũng có một tấm thảm nổi tiếng. Một dải (strip) thảm trên đó có hai đường, chạy trước băng ghế thấp nhứt ở hai bên của Viện. Nếu 1 NV trong lúc phát biểu sôi nổi (exuberance) có thể (chance) đưa 1 chân vượt ra khỏi đường ngoài cùng của dải thảm , tất cả đồng viện sẽ kêu, “ Trật tự! Trật tự!”, cho tới khi ông rút chân lại.
Nhiều thế kỷ trước đây, nhiều NV đã mang gươm tới phòng này, và thỉnh thoảng khi cảm xúc/giận dữ (passion) tràn dâng, có thể dẫn đến việc 1 NV rút gươm và đấu nhau với đối thủ.
Viện Thứ dân đã chán nản với việc cãi lộn (brawling) này, và đã quyết định rằng gươm sẽ để lại ở phòng giữ áo choàng ko tay (cloakroom*), nơi mà từ lúc đó dây da (thong) để giữ gươm – được cung cấp cho NV. Miễn là, ông còn trong vạch mức này, ông ko thể tới gần đối thủ. (Còn tiếp) 
* Cloak: áo choàng hay áo khoát ko tay.