Chỉ có một TĐ MIKE Force đã hoạt động vào lúc đó, theo lịnh của TL MACV, cựu chuẩn tướng Stringham kể lại: Lịnh được gửi từ Liên đoàn 5 LLĐB Mỹ ra lịnh BCH C-3 LLĐB Mỹ ở Biên Hòa phải lập 1 TĐ phản ứng nhanh. Thời gian ko nhiều và Toán A-302 được chưa tới 2 tuần để huấn luyện đv mới. Bổ sung quân số với tân binh, phát trang bị, và huấn luyện phải được hoàn tất trước ngày 22/6/1965. Sau hạn kỳ đó, TĐ sẵn sàng đáp ứng mọi khẩn cấp trong Vùng 3 Chiến thuật "nóng bỏng".
(Lúc đó đã xảy ra Trận Bình Giả cuối 1964-đầu 1965, nhưng chưa xảy ra Trận Đồng Xoài ngày 10 đến 11 tháng 6/1965 -- ND).
Trung tá Miguel "Mike" de la Pena
"Đv được đặt tên MIKE Force -- xuất phát từ ám danh đàm thoại "Mike" của trung tá Miguel de la Pena," Stringham nói. MIKE Force gồm 3 đại đội (mỗi đ.đ. 150 người). Với đ.đ. 348 làm hạt nhân, Toán A-302 tại tuyển mộ dân Nùng để làm cán bộ khung (fill the rank) cho các đ.đ khác. Họ cũng được thuê để lập trung đội thám sát. Kho có DSCĐ hay LLĐB người VN trong MIKE Force đầu tiên. Quan hệ gia đình mạnh mẻ giữa người Nùng khiến việc tuyển mộ này dễ dàng và gần như loại trừ vấn đề an ninh, ý nói bị xâm nhập bởi cán bộ VC.
"Giao việc cho bà con (nepotism) là mấu chốt của vấn đề," Stringham nói. "Phần lớn lính Nùng lớn tuổi là cựu lính Viễn chinh Pháp và họ bảo lãnh (vouch) những người Nùng trẻ. Đó là một loại "quá trình tự-kiểm tra lý lịch (self-vetting), ý nói người Mỹ khoán trắng việc kiểm tra lý lịch cho người Nùng -- dù biết vậy nhưng chúng tôi ko có thời giờ." Tân binh được khám sức khỏe qua loa (cursory) bởi y tá của toán A-302 để kiểm tra bịnh tật và thể chất. Họ được phát một bộ đồ trận có sọc giống da cọp và carbine M-2, xem hình, với băng đạn 30 viên. Trung đội vũ khí nặng của mỗi đ.đ. trang bị ba khẩu đại liêm M-1919A1, bắn đạn 7.62. (Năm 1968, khi học ở trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, tôi ở trung đội võ khí nặng của đ.đ., ngoài võ khí cá nhân Garant M-1 còn mang 2 đạn cối 60 ly. Tôi nhớ trung đội võ khí nặng của tôi chỉ có 1 đại liên nói trên, vì học ở quân trường ko phải mang nhiều như đv tác chiến -- ND). Về truyền tin, họ được cấp PRC-25.
.=====...
Nhiệm vụ đầu tiên của MIKE Force là tiến hành 1 đánh giá kết quả 1 oanh tạc của B-52 (bomb damage assessment).
Ảnh: Bunker ở góc tây bắc của trại Bù Đốp trước trận đánh. Những bunker rất kiên cố ở 4 góc của chu vi trại. VC đã phá hủy bunker này với súng không giựt (SKZ).
Ảnh 2: Chỗ ở (billet) của toán LLĐB tại Bù Đốp sau trận đánh. Trại gần như ko còn gì sau trận tấn công dữ dội này của VC.
Ảnh 3: Không ảnh của trại Bù Đốp. VC tấn công cạnh bắc và tây của trại. Chỗ ở của LLĐB ở giữa trại.
"Chúng tôi trang bị rất nhẹ, ko ba-lô hay lương thực. Chúng tôi đáp xuống đất và trời rất tối, Stringham nói. "Tôi phóng khỏi máy bay và lao xuống 1 hào sâu. Khi đã vào trại, tôi cho quân giữ chu vi, và đưa lính trong trại ra khỏi hàng rào, vì hình như họ đã thỏa hiệp với VC. Chỉ có nữa toán A và một nhúm DSCĐ ở đó." Chỉ có đụng độ nhỏ trong đêm. Việc xuất hiện của MIKE Force đã khiến VC đã thay đổi kế hoach. Vào sáng sớm, BCH ở Biên Hòa ra lịnh rút khỏi Bù Gia Mập và MIKE Force di chuyển để bảo vệ Bù Đốp.
Khi trời rạng sáng ngày 20/7, các C-123 bắt đầu di tản DSCĐ, MIKE Force và các cố vấn LLĐB. Toán của Stringham đặt chất nổ khắp trại, với thời nổ là 5-phút. Sau khi MIKE Force bay tới Sông Bé, tỉnh lỵ của Phước Long, đ.u. Stringham và hai hạ sq, Trung sĩ William Parnell và Trung sĩ Elliot Wilson lo kích hoạt khối chất nổ. Một trực thăng đến đúng lúc để bốc 3 người Mỹ. Bù Đốp đã tấn công mạnh tối hôm trước: hai cố vấn Mỹ và 20 DSCĐ tử thương.
Tới Bù Đốp vào chiều 20/7, Stringham bố trí MIKE Force ở cạnh nam của chu vi trại và chuyển đám DSCĐ của trại về phía bắc. Toán A-302 đã nghĩ rằng 1 số lớn DSCĐ là kẻ phản bội (turncoat) và mở đường cho VC vào trại. Địch đã tấn công trại lần nữa vào tối hôm đó, nhưng ko thể phá vỡ phòng tuyến. Sáng hôm sau, đ.u. Stringham, giờ là chỉ huy trại Bù Đốp, gửi 1 trung đội viễn thám dưới chỉ huy của các trung sĩ Parnell và Collins để tìm địch. Vì Bù Đốp rất gần biên giới Cam-bốt, tìm đường rút lui của địch tới nơi an toàn bên kia biên giới ko khó khăn. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề ở trại.
Toán cố vấn khám phá rằng mìn claymore đặt trên tuyến phòng thủ đã được quay mặt vào trong trại. Dựa vào điều này, các lính LLĐB bắt đầu điều tra kỹ lưỡng những lính DSCĐ và thân nhân của họ trong trại. Thật ko ngạc nhiên, rất nhiều người đã bị đuổi khỏi trại (đây là những DSCĐ bị nghi ngờ thân VC và thân nhân của họ -- ND). Với MIKE Force tăng cường phòng thủ và các cảm tình viên của VC bị đuổi đi, đe dọa về một tấn công đã giảm tối đa. Điều này là một bài học để áp dụng cho trại Đồng Xoài.
Người Nùng, mà sự trung thành với người Mỹ ko có gì để bàn cải, trở thành 1 bộ khung để lập các đv MIKE Force mới. Vào tháng 11/65, đ.u. Stringham và phần lớn thành viên của toán A-302--đóng góp trong việc thành lập MIKE Force đầu tiên đã hết nhiệm kỳ hay tour và trở về Mỹ. Huyền thoại của họ, ý nói MIKE Force của QĐ-3 gồm toàn người Nùng, là căn nguyên hay nguồn gốc của 1 trong những sáng kiến thành công nhất của LLĐB trong chiến tranh VN.
Rút tỉa từ kinh nghiệm chiến đấu và trung thành của người Nùng, MIKE Force đầu tiên là một đv được huấn luyện kỹ, chiến đấu giỏi và đáng tinh cậy có khả năng di chuyển để tăng cường hay giảm nhẹ áp lực địch ở các trại DSCĐ bị địch quân tấn công với quân số áp đảo. (Chẳng hạn như Trại Dak Seang, dù chỉ khoảng 400 quân, bị tấn công bởi khoảng 2 trung đoàn CSBV và một trung đoàn pháo, được tiếp cứu bởi 2 TĐ MIKE Force tháng 4/1970 --ND). Chẳng bao lâu, các BCH LLĐB tại các QK khác, đã nhận lịnh của Liên đoàn 5 LLĐB Mỹ để thành lập các TĐ như vậy.
Các liên đoàn MIKE Force tại các QK (vì quân số sau này lên tới 5-6 TĐ) đã cho phép LLĐB và các lính DSCĐ hăn say tìm và diệt địch.