Pages

Friday, July 18, 2025

 Rosendo là 1 người lính chuyên nghiệp, quê ở Big Spring, Texas, vào lính từ 1964, từng phục vụ 1 nhiệm kỳ tại vn từ 1966-67.

Rosendo là 1 người lính dò đường và là thành phần của toán an ninh của đoàn 17 không vận. (Lính dò đường thuộc BĐQ Mỹ, có nhiệm vụ tìm và an ninh bãi đáp -- ND). Ngày 15/4/1970, Rosendo đã bị trúng đạn tử thương khi ông tìm cách đổ quân vnch vào bãi đáp Orange để đối phó với việc tập trung quân csbv chung quanh trại LLĐB ở Dak Seang, khoảng 20 dặm bắc của Dak to. Ông là âm thoại viên và cùng với 1 lính Mỹ và 1 toán lính vnch là toán đầu tiên đổ xuống và sao đó bảo vệ an ninh bãi đáp cho những toán khác khi đột nhiên 1 chiếc trực thăng thứ hai cũng đến để đổ quân nhưng bị trúng đạn từ dưới đất bắn lên. Chiếc này bị bắn rơi. Chuyên viên Montana bị thương và tiếp tục tái lập liên lạc truyền tin. Ông đã tử trận khi 1 loạt đạn bắn vào ông.

===

Tình hình tại trại LLĐB Dak Seang thì hơi phức tạp 1 chút so với mô tả trên. Trại này đang bị tấn công và người ta quyết định đổ quân với TĐ 3/42 VNCH, vào 1 nơi hơi cao khoảng 1 dặm từ trại để giảm áp lực cho trại này. Như đã nói, đại đội 170 trực thăng tấn công, viết tắt là AHC, nhận trách nhiệm này. Dù cơ bản Bắc quân đã bao vây bãi đáp dự trù này nhưng phi công ko thấy vì chúng núp trong công sự ngụy trang kỹ lưỡng - và khi chúng để cho chiếc UH-1 đáp xuống mà ko nổ súng khiến phi công nghĩ rằng đây là 1 bãi đáp "nguội". (Đại đội 170 AHC đóng tại Pleiku với 8 chiếc gunship UH-1 B và 20 chiếc chở quân UH-1D, ngoài ra còn tăng phải bởi 1 toán vận chuyển, 1 toán truyền tin, và 1 toán quân y. đại đội này đổ toán biệt kích sang Lào và KPC-- ND). 

Chiếc Huey đầu tiên chở 2 lính dò đường Mỹ (Chuyên viên bậc 5 Rosendo Montana và hạ sĩ Herndon Bivens) và 6 lính VN. Chiếc Huey thứ hai, UH-1H số đuôi 68-16203, trúng đạn và rơi giữa bãi đáp. Dù 2 lính VN chết do máy bay rơi, 4 phi hành đoàn Mỹ và 4 lính VNCH khác chỉ bị thương nhẹ và chạy khỏi máy bay. Viên phi công, chuẩn úy Albert Barthelme, bị thương nặng nhưng được khiêng tới 1 một hố bom gần đó. Chuẩn úy Roger Miller (copilot), chuyên viên 4 Vincent Davis và chuyên viên 5 Donald Summers, và 4 lính VN ở với Barthelme; những người lính vn sống sót từ chiếc đầu tiên ở gần đó. Tất cả đều bị hỏa lực mạnh của bắc quân. Các cố gắng cấp thời để triệt xuất họ đều bị cản trở bởi 3 yếu tố:

- Trừ chiếc Huey chở Montana và Bivens, các chiếc trực thăng trong khu vực đều là gunship hay đầy lính VNCH.

- Bãi đáp nằm trên đỉnh đồi này phần nào tắc nghẽn bởi xác chiếc 68-16203; và

- Toàn khu vực bãi đáp giờ đây dưới hỏa lực từ lính csbv núp trong công sự bao gồm đại liên 4 nòng 12.8 ly và 23 ly phòng không.

Một lực lượng tìm và cấp cứu, gọi tắt là SAR, gồm 1 chiếc A-1 Skyraider và hai chiếc trực thăng khổng lồ HH-3, biệt danh Giant Jolly Green, xem hình, (tốc độ tối đa của máy bay là 164 dặm/giờ, phi hành đoàn 4 người, chở được 28 người hay 6.500 cân Anh). 



3 chiếc này đã vội vả xuất phát từ Đà Nẳng và bay đến khu vực. Trong khi chiếc A-1 Skyraider tìm cách khống chế các khẩu đại liên, chiếc HH-3H (Jolly Green 27, số đuôi 66-13280) dẫn đầu, định đáp xuống nhưng 2 lần đầu ko thành công. Ở lần đáp thứ 3, 1 khẩu 12.8 ly từ 1 nơi kín đáo nào đó đã nổ súng và bắn rơi chiếc này. Phi công Travis Scott, chết tại chỗ. Thiếu tá Travis Wofford, copilot, bị thương tương đối nhẹ, kéo 2 phi hành đoàn bị phỏng nặng rời xa chỗ máy bay rơi. Chỗ chiếc HH-3 này rơi cách khoảng hai chiếc kia, tuy ko bị hỏa lực dữ dội của csbv, nhưng lại ko thể yểm trợ lẫn nhau. May mắn thay, chiếc HH-3E thứ hai, số đuôi 68-10360, có thể đáp xuống kế nơi máy bay rơi và cứu Wofford và 2 phi hành đoàn bị thương từ chiếc 66-13280 trước khi bị trúng đạn phòng không 23 ly, xem hình và buộc phải rời chiến trường.

Hai chiếc UH-1D, ko chở quân, của đại đội 170 trực thăng tấn công đã đến. Một chiếc, lái bởi chuẩn úy Bill McDonald, đáp xuống dưới hỏa lực dữ dội của địch và mang chuyên viên 4 Davis và chuyên viên 5 Summer từ chiếc UH-1H số đuôi 68-16203 lên máy bay. Dù chiếc của McDonald bị hư hại do hỏa lực địch, phi công đã cố gắng đáp vào bên trong trại. Chiếc UH-1 thứ hai, đáp xuống kế chiếc của McDonald, cứu phi hành đoàn, và cất cánh với những kẻ bị thương khác. Vào lúc này, Davis và Summers được báo rằng 1 trong 2 người lính dò đường Mỹ đã chết và chuẩn úy Barthelme bị thương nặng.

Khi trời tối, trại LLĐB lại bị tấn công, và ko còn hy vọng nào để triệt xuất lính Mỹ và VN trên đỉnh đồi kể trên. Trong đêm tối, vài lính VNCH cố gắng vào trại và 2 người thành công. Miller và Bivens được yêu cầu ở lại chỗ chiếc UH-1 bị rơi với chuẩn úy Barthelme, vì ông này ko thể di chuyển, và chờ đợi sáng. Những cố gắng của toán SAR (tìm và cấp cứu) đã bắt đầu từ sáng sớm, nhưng vô ích - vì ko thấy nơi ẩn núp của những người lính Mỹ Việt trên đây. 

Tới ngày 29/4/1970 quân bạn đã tới bãi đáp này và tìm thấy xác của chuẩn úy Barthelme và chuyên viên 5 Montana. Ko có dấu vết của chuẩn úy Miller và hạ sĩ Bivens. 

Sau này người ta biết chuẩn úy Miller bị bắt, và được thả bởi bắc quân ngày 5/3/1973. Ông cho biết rằng trong đêm đó, sau khi Barthelme chết, cả hai cố gắng vào trại nhưng bị phục kích dọc đường. Bivens đã trúng nhiều phát ở ngực, và Miller được kể lại rằng Bivens đã chết 2 giờ sau khi bị bắt.

Tóm lại, 2 lính bộ binh Mỹ, 8 phi hành đoàn Mỹ, và 12 lính vnch đã xuống đất, nhưng chỉ có 6 người sống sót.

- Chiếc UH-1 số đuôi 68-16203: chuẩn úy Barthelme tử trận. Chuẩn úy Miller, tù binh, thả ngày 5/3/1973. Chuyên viên 5 Summers, bị thương, được tìm thấy. Chuyên viên 4 Davis, bị thương, được tìm thấy.

- Chiếc Huey thứ hai: chuyên viên 5 Montana, chết. đại úy Bivens, bị thương, nhưng chết sau khi bị bắt, ko thấy xác.

- Chiếc trực thăng khổng lồ HH-3E, thuộc đệ Thất Không lực: đại úy Scott, phi công, tử trận. Thiếu tá Wofford, copilot, bị thương. Trung sĩ nhất (SSGT) Davis, chết vì thương tích ngày 25/5/1970. Trung sĩ kỹ thuật Hartzel, chết vì thương tích ngày 20/4/1970/

- Thuộc TĐ 3/42 VNCH: có 10 chết, ko rõ tên. Hai sống sót, ko rõ tên.

===

 TĐ 23 BĐQ TIẾP VIỆN TRẠI DAK SEANG 1970

dù nhiệm vụ là cố vấn, nhưng có những tình huống đã khiến 1 số cố vấn bđq ra tuyến đầu. ngày 4/4/1970, trung sĩ nhất gary littrel là người cố vấn bđq duy nhất ko bị thương sau một đợt pháo bằng cối của trung đoàn 28 csbv vào vị trí phòng thủ của tđ 23 bđq vnch trên đỉnh đồi 763 tại tỉnh kontum. một chiếc trực thăng định xuống tải thương theo yêu cầu của littel nhưng ko thực hiện do hỏa lực súng nhỏ. Lúc đó người cố vấn BĐQ này đang đứng ngoài đồng trống cầm đèn nhấp nháy. Để bảo vệ người bị thương, Littrel đã điều khiển yểm trợ tiếp cận suốt đêm và tới sáng hôm sau.

Khi trời sáng, một đợt pháo kích nặng nề vào TĐ vnch bị vây hãm này. Littrel di chuyển ra chu vi phòng thủ để sơ cứu, hướng dẫn không kích, và di chuyển thương binh. Một trực thăng tiếp tế đáp xuống khoảng 1000. Littrel đưa ba cố vấn bđq bị thương lên máy bay cùng với vái lính bđq trong khi cố vấn bđq khác, chuyên viên 5 Raymond Dieterle, nhảy xuống từ máy bay.

Trong phần còn lại của ngày, hai cố vấn bđq này di chuyển ra chu vi phòng thủ, gọi không yểm, điều chỉnh pháo binh (bắn từ các căn cứ hỏa lực (CCHL) như Tango cách đó 6-7 km, theo hồi ký Trận Dak Seang 1970 của Vương mộng Long -- ND), và cổ võ tinh thần cho các chiến hưu bđq vn của họ. Áp lực vào chu vi phòng thủ càng lúc càng tăng khi trời sắp tối. Các tấn công thăm dò của đặc công bị đẩy lui bởi súng nhỏ, pháo binh và Hỏa Long AC-47.

Sáng ngày 6/4/1970 mở đầu bởi 1 đợt tấn công của bắc quân nhưng bị đẩy lui. Suốt ngày đó, bắc quân tiếp tục pháo vào lực lượng bị bao vây (beleaguered) trong khi 2 cố vấn tiếp tục kiểm tra (make his round) chu vi phòng thủ, nâng cao tinh thần lính VN (snore up). Lúc 0630 ngày kế, một đợt pháo kích dữ dội rơi xuống đỉnh đồi. Một đợt xung phong xuất phát từ khu rừng, đã bị các trực thăng, do Littrel hướng dẫn, chặn đứng. Dù bị không kích, sau đó nửa giờ, đợt tấn công biển người đã gần như chọc thủng chu vi. Sự chiến đấu quả cảm của những người lính mệt mỏi và can đảm của cố vấn đã đẩy lui chúng. 

Lính BĐQ VN đã cố thủ trước những đợt tấn công đêm đó. Cuối cùng, lúc 1030 ngày 8/4/1970, TĐ kiệt quệ này được lịnh rút xuống đồi, đi xuyên rừng, vượt sông Dak Poko, để bắt tay với tđ 22 bđq. Hai cố vấn này bắt đầu tổ chức việc di chuyển, phân phối súng đạn, và chăm lo thương binh và người chết mà họ mang theo.

TĐ di chuyển lúc 1100, dưới quyền của TĐ trưởng đang trong tình trạng bàng hoàng. Ông cho TĐ di chuyển xuống 1 nhánh núi (spur), dù 2 cố vấn cảnh báo vì gần vị trí địch. Ở chân đồi, ông này cho lịnh dựng quân 5 phút để uống trà.

Ngay lập tức, TĐ đã bị pháo cối dồn dập. Tuy nhiên Littrel vẫn liên lạc với TĐ 22 BĐQ và nhờ họ phản pháo vào cối của địch. Yêu cầu gunship yểm trợ ko được thỏa đáng vì họ phục vụ nơi khác khiến TĐ trưởng hoảng loạn và bỏ chạy. Thấy ông này bỏ chạy, lính bđq chạy tán loạn (scatter), bỏ người chết và bị thương ở lại.

Với câu nói "Hãy đội mũ và tiến lên", Littrel nắm tay Dieterle và từ từ tập hợp những BĐQ đang phân tán. Với đám tàn quân này, hai cố vấn đã hướng dẫn đội hình xuyên rừng trong vài giờ tới 1 nơi toàn. Vì bắc quân truy đuổi, BĐQ đã hướng dẫn cối bắn cản đường. Trong lúc đẩy lùi 1 đợt tấn công, Littrel và bạn ông đã ngả xuống đất vì sức ép của quả bom 500 mà cố vấn này đã yêu cầu thả gần đó. 

Trong lúc chỉ huy lính BĐQ thoát 2 cuộc phục kích, hai người Mỹ này tiếp tục cổ võ tinh thần lính BĐQ, và mang theo thương binh. Tại điểm phục kích cuối cùng, Littrel ngừng lại để giúp 3 thương binh bđq. Mang người bị thương nặng nhất trên lưng và kéo 2 người khác, Littrel và phần còn lại của TĐ qua sông Dak Poko để tới nơi an toàn. Trong trận này, TĐ 23 bđq có 218 vừa chết vừa bị thương và 19 mất tích. 


No comments:

Post a Comment