Pages

Thursday, July 24, 2025


BÃI ĐÁP RẤT "HOT" CỦA TĐ 3/42 TRONG TRẬN DAK SEANG THÁNG 4/1975

Lời nói đầu: Theo những thông tin trên mạng, trong trận Dak Seang 1970, có khoảng 4 hay 5 TĐ tiếp viện cho trại gồm 2 TĐ của MIKE Force, TĐ 23 BĐQ, 1 hay 2 TĐ của trung đoàn 42 bộ binh (trong đó có TĐ 3/42 trong bài này). Theo sắp xếp của phòng 3 sđ 22 hay ban 3 trung đoàn 42, mỗi TĐ có bãi đáp, viết tắt là LZ khác nhau. Thời đó bãi đáp nào mà khi đổ quân mà gặp ngay hỏa lực địch thì bãi đáp đó "hot", còn ko gặp hỏa lực địch thì gọi là bãi đáp "cold". Bài dưới đây mô tả về tổn thất  trong lúc đổ quân của TĐ 3/42.

- Trong những phút đầu tiên của đợt đổ quân này, trong số 22 người gồm phi hành đoàn Mỹ, lính Mỹ và lính VNCH, đã có 16 người chết do máy bay rớt, do hỏa lực dữ dội của địch. Chỉ có 6 người sống sót. Chưa kể 1 trực thăng khổng lồ HH-3H, chuyên cấp cứu phi công lâm nạn và một chiếc UH-1 đổ quân bị rơi tại bãi đáp này.

https://www.virtualwall.org/dm/0MontanaRx01a.htm

Rosendo là 1 người lính chuyên nghiệp, quê ở Big Spring, Texas, vào lính từ 1964, từng phục vụ 1 nhiệm kỳ tại VN từ 1966-67.

Rosendo là 1 người lính dò đường và là thành phần của toán an ninh của đoàn 17 không vận. (Lính dò đường thuộc BĐQ Mỹ, có nhiệm vụ tìm và an ninh bãi đáp -- ND). Ngày 15/4/1970, Rosendo đã bị trúng đạn tử thương khi ông tìm cách đổ quân VNCH vào bãi đáp Orange để đối phó với việc tập trung quân csbv chung quanh trại LLĐB ở Dak Seang, khoảng 20 dặm bắc của Dak to. Ông là âm thoại viên và cùng với 1 lính Mỹ và 1 toán lính vnch là toán đầu tiên đổ xuống và sau đó bảo vệ an ninh bãi đáp cho những toán khác khi đột nhiên 1 chiếc trực thăng thứ hai cũng đến để đổ quân nhưng bị trúng đạn từ dưới đất bắn lên. Chiếc này bị bắn rơi. Chuyên viên Montana bị thương và tiếp tục tái lập liên lạc truyền tin. Ông đã tử trận khi 1 loạt đạn bắn vào ông.

===

Tình hình tại trại LLĐB Dak Seang thì hơi phức tạp 1 chút so với mô tả trên. Trại này đang bị tấn công và người ta quyết định đổ quân với TĐ 3/42 VNCH, vào 1 nơi hơi cao khoảng 1 dặm từ trại để giảm áp lực cho trại này. Như đã nói, đại đội 170 trực thăng tấn công, viết tắt là AHC, nhận trách nhiệm này. Dù cơ bản Bắc quân đã bao vây bãi đáp dự trù này nhưng phi công ko thấy vì chúng núp trong công sự ngụy trang kỹ lưỡng - và khi chúng để cho chiếc UH-1 đáp xuống mà ko nổ súng khiến phi công nghĩ rằng đây là 1 bãi đáp "nguội". (Đại đội 170 AHC đóng tại Pleiku với 8 chiếc gunship UH-1 B và 20 chiếc chở quân UH-1D, ngoài ra còn tăng phải bởi 1 toán vận chuyển, 1 toán truyền tin, và 1 toán quân y. Đại đội này từng đổ toán biệt kích sang Lào và KPC-- ND). 

Chiếc Huey đầu tiên chở 2 lính dò đường Mỹ (Chuyên viên bậc 5 Rosendo Montana và hạ sĩ Herndon Bivens) và 6 lính VN. Chiếc Huey thứ hai, UH-1H số đuôi 68-16203, trúng đạn và rơi giữa bãi đáp. Dù 2 lính VN chết do máy bay rơi, 4 phi hành đoàn Mỹ và 4 lính VNCH khác chỉ bị thương nhẹ và chạy khỏi máy bay. Viên phi công, chuẩn úy Albert Barthelme, bị thương nặng nhưng được khiêng tới 1 một hố bom gần đó. Chuẩn úy Roger Miller (copilot), chuyên viên 4 Vincent Davis và chuyên viên 5 Donald Summers, và 4 lính VN ở với Barthelme; những người lính vn sống sót từ chiếc đầu tiên ở gần đó. Tất cả đều bị hỏa lực mạnh của bắc quân. Các cố gắng cấp thời để triệt xuất họ đều bị cản trở bởi 3 yếu tố:

- Trừ chiếc Huey chở Montana và Bivens, các chiếc trực thăng trong khu vực đều đầy lính VNCH hay gunship - vì mang nhiều rocket và đạn 7.62 ly cho hai khẩu M-60 nên ngoài phi hành đoàn 4 người, gunship ko thể chở thêm người như loại chở quân (slick) -- ND). 

- Bãi đáp nằm trên đỉnh đồi này phần nào tắc nghẽn bởi xác chiếc 68-16203; và

- Toàn khu vực bãi đáp giờ đây dưới hỏa lực từ lính csbv núp trong công sự bao gồm đại liên 4 nòng 12.8 ly và 23 ly phòng không.

Một lực lượng tìm và cấp cứu, gọi tắt là SAR, gồm 1 chiếc A-1 Skyraider và hai chiếc trực thăng khổng lồ HH-3, biệt danh Giant Jolly Green, xem hình, (tốc độ tối đa của máy bay là 164 dặm/giờ, phi hành đoàn 4 người, chở được 28 người hay 6.500 cân Anh). 



3 chiếc này đã vội vả xuất phát từ Đà Nẳng và bay đến khu vực. Trong khi chiếc A-1 Skyraider tìm cách khống chế các khẩu đại liên, chiếc HH-3H (Jolly Green 27, số đuôi 66-13280) dẫn đầu, định đáp xuống nhưng 2 lần đầu ko thành công. Ở lần đáp thứ 3, 1 khẩu 12.8 ly từ 1 nơi kín đáo nào đó đã nổ súng và bắn rơi chiếc này. Phi công Travis Scott, chết tại chỗ. Thiếu tá Travis Wofford, copilot, bị thương tương đối nhẹ, kéo 2 phi hành đoàn bị phỏng nặng rời xa chỗ máy bay rơi. Chỗ chiếc HH-3 này rơi ko xa hai chiếc kia, tuy ko bị hỏa lực dữ dội của csbv, nhưng lại ko thể yểm trợ lẫn nhau. May mắn thay, chiếc HH-3E thứ hai, số đuôi 68-10360, có thể đáp xuống kế nơi máy bay rơi và cứu Wofford và 2 phi hành đoàn bị thương từ chiếc 66-13280 trước khi bị trúng đạn phòng không 23 ly, xem hình và buộc phải rời chiến trường.

Hai chiếc UH-1D, ko chở quân, của đại đội 170 trực thăng tấn công đã đến. Một chiếc, lái bởi chuẩn úy Bill McDonald, đáp xuống dưới hỏa lực dữ dội của địch và mang chuyên viên 4 Davis và chuyên viên 5 Summer từ chiếc UH-1H số đuôi 68-16203 lên máy bay. Dù chiếc của McDonald bị hư hại do hỏa lực địch, phi công đã cố gắng đáp vào bên trong trại. Chiếc UH-1 thứ hai, đáp xuống kế chiếc của McDonald, cứu phi hành đoàn, và cất cánh với những kẻ bị thương khác. Vào lúc này, Davis và Summers được báo rằng 1 trong 2 người lính dò đường Mỹ đã chết và chuẩn úy Barthelme bị thương nặng.

Khi trời tối, trại LLĐB lại bị tấn công, và ko còn hy vọng nào để triệt xuất lính Mỹ và VN trên đỉnh đồi kể trên. Trong đêm tối, vài lính VNCH cố gắng vào trại và 2 người thành công. Miller và Bivens được yêu cầu ở lại chỗ chiếc UH-1 bị rơi với chuẩn úy Barthelme, vì ông này ko thể di chuyển, và chờ đợi sáng. Những cố gắng của toán SAR (tìm và cấp cứu) đã bắt đầu từ sáng sớm, nhưng vô ích - vì ko thấy nơi ẩn núp của những người lính Mỹ Việt trên đây. 

Tới ngày 29/4/1970 quân bạn đã tới bãi đáp này và tìm thấy xác của chuẩn úy Barthelme và chuyên viên 5 Montana. Ko có dấu vết của chuẩn úy Miller và hạ sĩ Bivens. 

Sau này người ta biết chuẩn úy Miller bị bắt, và được thả bởi bắc quân ngày 5/3/1973. Ông cho biết rằng trong đêm đó, sau khi Barthelme chết, cả hai cố gắng vào trại nhưng bị phục kích dọc đường. Bivens đã trúng nhiều phát ở ngực, và Miller được kể lại rằng Bivens đã chết 2 giờ sau khi bị bắt.

Tóm lại, 2 lính bộ binh Mỹ, 8 phi hành đoàn Mỹ, và 12 lính vnch đã xuống đất, nhưng chỉ có 6 người sống sót.

- Chiếc UH-1 số đuôi 68-16203: chuẩn úy Barthelme tử trận. Chuẩn úy Miller, tù binh, thả ngày 5/3/1973. Chuyên viên 5 Summers, bị thương, được tìm thấy. Chuyên viên 4 Davis, bị thương, được tìm thấy.

- Chiếc Huey thứ hai: chuyên viên 5 Montana, chết. đại úy Bivens, bị thương, nhưng chết sau khi bị bắt, ko thấy xác.

- Chiếc trực thăng khổng lồ HH-3E, thuộc đệ Thất Không lực: Đại úy Scott, phi công, tử trận. Thiếu tá Wofford, copilot, bị thương. Trung sĩ nhất (SSGT) Davis, chết vì thương tích ngày 25/5/1970. Trung sĩ kỹ thuật Hartzel, chết vì thương tích ngày 20/4/1970/

- Thuộc TĐ 3/42 VNCH: có 10 chết, ko rõ tên. Hai sống sót, ko rõ tên.

Tham khảo thêm từ các nguồn sau:

- https://macvsog.cc/1970.htm

- https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/Story/Article/2549011/medal-of-honor-monday-army-command-sgt-maj-gary-littrell/

===

San Jose ngày 24/7/2025

No comments:

Post a Comment