Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào
        
    
    
            Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào (Kỳ 2)
        
    
    
            QĐND - Thứ hai, 14/02/2011 | 17:16 GMT+7
    
    
Kỳ 2: Còn người còn chốt, bị thương không rời trận địa
QĐND -
 Thực hiện quyết tâm tác chiến của bộ chỉ huy Chiến dịch Đường 9-Nam 
Lào, các lực lượng ém quân trên các hướng. Các chốt chặn của chiến dịch 
được lệnh nổ súng chia cắt, ngăn chặn làm giảm nhịp điệu tiến công của 
địch, tạo ra những yếu tố bất ngờ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực, 
phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ kho tàng giao thông vận chuyển.
 Các lực lượng cơ động, chủ lực phục kích, tập kích ngăn chặn địch ở Bản
 Đông.
Ngày
 8-2-1971 trên hướng tấn công chủ yếu của địch, bộ đội ta đã bẻ gãy 
nhiều đợt tấn công của quân ngụy Sài Gòn. Khi chúng vượt qua biên giới 
Việt Nam sang Lào, bộ đội ta vẫn giữ vững các điểm chốt.
Đặc
 biệt, 16 giờ chiều ngày 8-2-1971 tại khu vực đường 16, Trung đoàn 88 
thuộc Sư đoàn 308, vừa cơ động tới A Lia thì gặp địch đổ quân xuống điểm
 cao 316, sát trận địa pháo của ta ở Làng Sen. Trung đoàn trưởng 88 ra 
lệnh cho Tiểu đoàn 6 vận động tấn công, bao vây đánh thiệt hại nặng Đại 
đội 3, Tiểu đoàn biệt động quân 21 diệt 80 tên, bảo vệ an toàn trận địa 
pháo. Chiều 10-2 quân địch chiếm được Bản Đông. Ta quyết tâm vây đánh 
không cho chúng tiến lên Sê Pôn. Đêm 11-2, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 và 
Đại đội 9 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 64 phối hợp tập kích Tiểu đoàn 2 thuộc 
Lữ đoàn dù số 1 ở Bắc Sê Num. Tiếp đó, đến ngày 12-2 Tiểu đoàn 4 (thiếu 
Đại đội 2) được tăng cường Đại đội 9, Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn 88 
tập kích Tiểu đoàn biệt động quân 39 vừa đáp máy bay trực thăng xuống 
điểm cao 500. Trong 2 trận đánh ở Sê Num và điểm cao 500 ta chỉ tiêu 
diệt được một số sinh lực địch, hiệu suất chiến đấu thấp. Dù vậy, quân 
địch sợ hãi phải co cụm lại không dám bung ra lùng sục ngoài căn cứ.
|  | 
| 
Các
 chiến sĩ Quân giải phóng trong trận tiêu diệt Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn dù 3
 - ngụy  quân tại chân cao điểm 402 và Đồi Không tên. Ảnh tư liệu. | 
4
 giờ sáng ngày 9-2-1971, từ Sở chỉ huy Trung đoàn 24 (Sư 304) - đây là 
lần đầu tiên Trung đoàn 24 vừa làm nhiệm vụ chốt chiến dịch vừa thực 
hiện chiến thuật bao vây công kích địch, Trung đoàn trưởng Lê Đắc Long 
nhận được điện của Tư lệnh trưởng Sư đoàn 308 Nguyễn Hữu An “địch đang 
tiến vào cầu Ka Ky và điểm cao 351, 311”. Ngay lập tức Trung đoàn trưởng
 điện qua bộ đàm 2 WPRC25 cho Chính trị viên phó Đại đội 7 Lê Mã Lương 
đang chỉ huy trung đội chốt chặn điểm cao 351. Vừa triển khai nhiệm vụ 
cho 3 tiểu đội bộ binh và tiểu đội hỏa lực theo chỉ thị của Trung đoàn 
trưởng, chưa kịp về vị trí chỉ huy thì cả trận địa chốt C7 của Lê Mã 
Lương ngập chìm trong khói lửa, tiếng nổ của pháo binh và trọng liên từ 
trên máy bay trực thăng vũ trang địch. Trong 2 giờ chiến đấu, cán bộ 
chiến sĩ Đại đội 7 đã đánh lui 5 đợt tiến công của địch, tiêu diệt gần 2
 đại đội lính dù và biệt động quân, riêng Lê Mã Lương diệt 14 tên. Ngày 
11 và 12-2 tại khu vực cầu KaKy,
 các đơn vị súng máy cao xạ của Trung đoàn 24, Trung đoàn 102 bắn rơi 30
 máy bay lên thẳng của địch. Kẻ thù khiếp đảm khi phải qua “con đường 
máu lửa” mà chốt cầu Ka Ky 351 do đơn vị anh chốt giữ suốt thời gian 
chiến dịch mở ra và kết thúc là cửa tử đối với địch khi chúng hành quân 
lên Bản Đông và khi chúng rút chạy về Khe Sanh.
Ngày
 11-2-1971, Phùng Quang Thanh-Trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 9, 
Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64, Sư đoàn 320 trực tiếp chỉ huy một tiểu đội 
chốt giữ đồi Không Tên. Địch dùng 1 đại đội có máy bay yểm trợ, chia làm
 2 mũi tấn công chốt. Phùng Quang Thanh chỉ huy tiểu đội chờ địch vào 
gần mới nổ súng, diệt 38 tên, đẩy lùi địch ra xa, riêng Phùng Quang 
Thanh diệt 8 tên. Hai ngày sau địch lại tiến công lên chốt, Phùng Quang 
Thanh bị thương, cấp trên cho lui về tuyến sau nhưng anh xin ở lại chiến
 đấu. Phùng Quang Thanh nhờ đồng đội tháo nắp 17 quả lựu đạn cho vào túi
 đeo quanh người nhờ y tá băng và treo cánh tay trái cho đỡ vướng rồi 
dẫn đầu tiểu đội xung phong đánh tạt sườn quân địch, phối hợp đơn vị bạn
 diệt gọn 1 đại đội địch. Riêng tiểu đội do anh chỉ huy diệt 37 tên, bắt
 1 tên, thu 2 súng. Sau trận thắng ở đồi Không Tên, quân địch không dám 
ra lùng sục dọc đường 16A.
Như
 vậy, sau 5 ngày quân địch liều mạng tiến công, từ ngày 8 đến 13-2-1971,
 chúng đã bị thiệt hại nặng, nhiều kế hoạch triển khai lực lượng, bị ta 
phá vỡ, buộc chúng phải hủy bỏ hoặc điều chỉnh, do đó tốc độ tiến quân 
và các mục tiêu đánh chiếm đạt được rất thấp. Trước tình hình đó, kế 
hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch là kiềm chế địch trên các 
hướng, đồng thời thực hiện chia cắt đường 9, con đường độc đạo nối thông
 từ Quảng Trị Việt Nam qua tỉnh Sa-van-na khệt Lào bao vây, cô lập lực 
lượng tinh nhuệ ở Bản Đông. Chặn lực lượng địch tiến lên Sê Pôn. Nếu 
quân địch chọc thủng tuyến bao vây, chia cắt để lên được thì lập tức tập
 trung lực lượng đủ mạnh buộc địch sa lầy và bị tiêu diệt lớn ở đó. Từng
 bước điều chỉnh lực lượng nhằm triển khai thế trận phản công, toàn 
chiến dịch. Thực hiện đúng kế hoạch tác chiến ngày 15-2-1971 các đơn vị 
trên cả ba hướng chiến dịch bắt đầu mở đợt phản công, tiêu diệt địch.
Trên
 hướng chủ yếu, sừng sững điểm cao 500 do Tiểu đoàn số 39 liên đoàn biệt
 động quân số 1 ngụy chiếm giữ được chọn là mục tiêu “đột phá khẩu”. Đây
 là điểm cao khống chế có ý nghĩa về chiến thuật nằm sát trục đường 16b,
 nối đường 16A với Bản Đông. Tiểu đoàn số 39 là tiểu đoàn thiện chiến 
với trang bị hỏa lực mạnh lại được hỏa lực pháo binh và Không quân Mỹ 
chi viện. Địch coi đây là một chốt chặn quan trọng trên hướng Bắc.
Ý
 thức được trận đánh điểm cao 500 có ý nghĩa then chốt tác động đến sự 
phát triển của chiến dịch, vì vậy Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 quyết định chọn
 trung đoàn chủ công 102 do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính ủy 
Nguyễn Hữu Ích chỉ huy thực hiện trận đánh quan trọng này. Từ ngày 
16-2-1971 đến ngày 20-2-1971, ta dùng các thủ đoạn chiến thuật vây lấn 
hỏa lực chế áp, phá hoại các mục tiêu, không quân địch khó khăn trong 
việc tiếp ứng cho điểm cao 500, vì vậy quân địch chống trả ngày càng yếu
 ớt. Đến chiều ngày 20-2-1971, quân ta hoàn toàn làm chủ điểm cao 500, 
tiểu đoàn biệt động quân 39 bị xóa sổ.
Thừa
 thắng, trưa ngày 25-2-1971 được hỏa lực pháo binh chi viện, bộ binh 
Trung đoàn 64 và xe tăng phối thuộc tấn công vào căn cứ 31. Mặc dù địch 
tập trung pháo binh và không quân bắn ngăn chặn quyết liệt nhằm chi viện
 cho lực lượng phản kích, nhưng chiều 25-2 chiến sĩ Trung đoàn 64 đã làm
 chủ căn cứ 31, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn dù 3, Tiểu đoàn pháo binh và sở 
chỉ huy Lữ đoàn dù số 3, bắt sống viên Đại tá Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ 
cơ quan tham mưu lữ đoàn.
Ngày
 26-2-1971, sau khi Lữ đoàn dù số 3 bị tiêu diệt. Địch buộc phải tổ chức
 lại sư đoàn dù, tổ chức thành 2 lữ đoàn gồm 7 tiểu đoàn và 1 tiểu đoàn 
trực thuộc sư đoàn dù có nhiệm vụ trấn giữ Bản Đông, và giải tỏa đường 9
 giảm áp lực chia cắt của ta.
Như
 vậy là ở cánh phía Bắc, sau khi đổ quân chiếm các điểm cao, địch đã bị 
ta vây hãm, ngăn chặn, bị diệt từng đơn vị, buộc địch ở Bản Đông phải cơ
 động lực lượng lên phản kích cứu nguy nhưng không cứu vãn được tình 
thế. 
Cho
 đến ngày 3-3-1971 ta đã chặn đứng được địch ở Bản Đông không cho địch 
phát triển lên Sê Pôn bằng lực lượng thê đội 1 chiến dịch, buộc địch 
phải sử dụng thê đội 2 chiến dịch tiếp tục kế hoạch tiến công lên Sê Pôn
 với mục tiêu hạn chế. Các lực lượng của ta giữ vững Sê Pôn bảo đảm an 
toàn tuyến vận chuyển chiến lược bao vây, chia cắt địch đồng thời điều 
động lực lượng chuẩn bị điều kiện để thực hành phản đột kích lớn tiêu 
diệt lực lượng chiến dịch của địch. Lực lượng thê đội 1 và cả thê đội 2 
chiến dịch của địch đều tổn thất nặng nề. Trong thế quẫn bách, hoang 
mang, lúng túng, chúng vẫn tiếp tục liều lĩnh đổ quân lên Sê Pôn với mục
 đích phô trương vớt vát ảnh hưởng về chính trị và nghị binh để rút quân
 mau lẹ. Vì vậy, địch sử dụng 2 tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 2, Sư
 đoàn 1 bộ binh, đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống Đông Bắc Sê Pôn, 
cùng đi sẽ có cả phóng viên báo chí, thông qua đám phóng viên báo chí 
địch tổ chức một cuộc họp báo để tuyên bố là chiếm được Sê Pôn. Nhưng kế
 hoạch không thành, do quá khiếp sợ các phóng viên báo chí không dám 
liều mạng lên Sê Pôn và 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 2, Sư bộ binh 1 
ngụy cũng không thể tới được Sê Pôn vì bị quân ta chặn đánh.
Trong
 quá trình ngăn chặn và phá thế tiến công của địch, các lực lượng của 
ta, đặc biệt là các lực lượng tại chỗ, các chốt chiến dịch đã phát huy 
tốt tác dụng đánh ngăn chặn, hạ máy bay, diệt cơ giới, nhiều phân đội 
đánh có hiệu suất cao, các đơn vị B70 và Sư đoàn 324 đã tiêu diệt 1 bộ 
phận sinh lực địch, ngăn chặn từng bước và chặn đứng được địch ở Bản 
Đông. Không cho địch thực hiện kế hoạch tiến lên Sê Pôn bằng lực lượng 
thê đội 1 chiến dịch; phản đột kích mạnh mẽ, bẻ gãy hoàn toàn cánh Bắc 
của địch, đánh thiệt hại nặng cánh Nam, triển khai được đội hình chiến 
dịch để hình thành thế bao vây địch vững chắc.
Thiếu tướng Lê Mã Lương
Kỳ cuối: Cơn ác mộng của ngụy quân
No comments:
Post a Comment