Pages

Sunday, August 3, 2025

 



Three days later, the allies struck back in Binh Duong. Intelligence indicated that the enemy had positioned a PLAF battalion and an arms depot about 10 kilometers northwest of Thu Dau Mot. Because the information was already several days old, allied planners made the depot the target and not the battalion. The operation began on the morning of 8 May as aircraft hit three landing zones in preparation for the arrival of thirty-two Huey transports and twenty-five helicopter gunships provided by the U.S. Army’s 145th Aviation Battalion, as well as ten Vietnamese CH–34s. A .50-caliber machine gun shot down a CH–34 carrying intelligence personnel and two defectors who were to lead the soldiers to the target. The rest of the helicopters

discharged two battalions of the 9th Infantry on schedule. U.S. helicopters were to disembark a third battalion, this time from the 7th Infantry, into a blocking position, but this force diverted to secure the crash site instead. It found no survivors from the crash. Meanwhile, the 9th Infantry advanced in two columns from south to north. T he search failed to find the weapons depot, but the infantry killed 2 rebels, captured 75,000 piastres, and destroyed up to 30 tons of rice before linking up with a fourth battalion that had advanced by land. The three battalions set up a perimeter for the night near the Saigon River. T he next morning, 9 May, the three battalions set out in nine company columns, each spaced 50 meters apart in dense jungle. As they advanced, the troops received an increasing amount of fire. At noon, they found an abandoned horseshoe-shaped defensive position 750 meters in diameter. They occupied the position, with one battalion each facing north, east, and south. Automatic weapons overlooked a field to the west, the only open terrain in what otherwise was a flat expanse of jungle. Enemy f ire, including mortars, continued to grow as the day wore on. The commander of 

the 9th Infantry asked for reinforcements, but the 5th Division’s commander, Brig. Gen. Tran Thanh Phong, refused, judging the situation too dangerous. Thirteen allied Skyraiders and four U.S. B–57 aircraft responded with bombs, rockets, and shells. South Vietnamese artillery—ten 105-mm. and two 155-mm. howitzers—joined in, ultimately firing 1,700 rounds. The artillery was not effective, because commanders refused to drop rounds close to the perimeter. They perhaps were correct in their judgement, for at 1800, several rounds accidentally landed inside the perimeter. In two recent operations, friendly aircraft had bombed the 9th Infantry, and with B–57s flying overhead, the soldiers mistakenly assumed that allied aircraft once again had bombed them. Fifteen minutes later, bugles and whistles heralded a Communist assault. Shaken by the friendly fire incident and facing a determined attack, the soldiers “wilted, fleeing in disorder.” Regimental adviser Maj. Thomas W. Brogan and his subordinates used every means at their disposal, including force, to stop the rout, but to no avail. A few Vietnamese officers tried to rally the troops too, but most, including the regimental commander, whom the government had decorated thirteen times for bravery, joined the stampede. The soldiers fled west into the field, with U.S. Army gunships doing their best to protect them. The rout left just 200 Vietnamese, many of whom were wounded, and 16 U.S. advisers to face the enemy. T he remaining soldiers established a perimeter about a kilometer west of the original position. A helicopter braved enemy fire to pick up three wounded advisers. Bowing to U.S. pressure, Phong agreed to a rare nighttime airmobile assault, with U.S. helicopters delivering a fresh battalion at 2000. Fortunately, the defenders faced nothing more than harassing fire through the night. At 0700 on the tenth, helicopters delivered an airborne battalion to reinforce the survivors and to facilitate their extraction later that day. For the second time in just a few weeks, three government battalions had fled the f ield in a single incident. All totaled, the fiasco cost the South Vietnamese 32 dead, 122 wounded, 36 missing, a helicopter, plus nearly 100 weapons. The U.S. Army suffered two dead and three wounded. One of the wounded Americans was one of six soldiers the 173d Airborne Brigade had sent on the operation as observers. Known enemy losses from the three-day operation totaled four killed with three soldiers and four weapons captured. MACV sent teams to help rebuild the fighting spirit of the three broken battalions.54 T he large-scale routs that had occurred on 19 April in II Corps and 9 May in III Corps raised serious questions. South Vietnamese soldiers had performed well on many a battlefield throughout April and May. Were the two stampedes therefore an aberration, or were they harbingers of greater disintegration in the future? MACV was unsure, but it certainly appreciated the common soldier’s plight. Confused by the country’s unsettled political situation, lacking a firm commitment to a cause, and sometimes saddled with mediocre leaders, South Vietnam’s soldiers nevertheless had endured many dangers and hardships over the years. Would they continue to do so, or would the enemy’s growing numbers and new armament be the final straw? To what extent could U.S. combat power, in the sky and perhaps on the ground, persuade the South Vietnamese soldiers to stay in the fight?


 ba ngày sau đó, tình báo ở bình dương cho biết một tđ quân giải phóng và một kho súng khoảng 10 km tây bắc thủ dầu một. vì thông tin đã cũ vài ngày, liên quân việt mỹ đã chọn kho súng làm mục tiêu mà ko là tđ địch. Ba bãi đáp được không quân dọn bãi vào sáng ngày 8/5 để cho 32 máy bay Huey đổ quân, bảo vệ bởi 25 gunship của tđ 145 không vận mỹ, cũng như 10 chiếc h-34 vnch. một chiếc h-34 chở nhân viên tình báo và hai hồi chánh viên bị bắn rơi. Hai TĐ của trung đoàn 9 đã đổ quân đúng kế hoạch. 



=====

ngày 8-10/5/1965.

sau khi tin tình báo cho biết 1 tđ vc và 1 kho súng ở khoảng 10 km tây bắc thủ dầu một, qlvnch đã trực thăng vận hai tđ của trung đoàn 9. một đại liên 50 của vc đã bắn rơi 1 trực thăng h-34, làm chết mọi người trên máy bay, bao gồm chuyên viên tình báo và hai hồi chánh viên (hướng dẫn họ tới mục tiêu). trung đoàn 9 ko tìm được kho súng, nhưng giết 2 vc, tich thu 75.000 đồng tiền vnch, và hủy 30 tấn gạo; sau đó bắt tay với một tđ đến trước bằng đường bộ. ba tđ lập 1 chu vi để đóng quân qua đêm gần sông sg. sáng ngày kế, ba tđ chia thành 9 đ.đ., tiến quân song song, đ.đ. này cách đ.đ. kia 50 mét, vào rừng sâu. trong lúc tiến quân, các đv đã bị tấn công với hỏa lực càng lúc càng tăng và lập chu vi phòng thủ vào giữa ngày. tl của sđ 5 từ chối viện binh, vì nhận định tình hình quá nguy hiểm và yêu cầu phi pháo bắn quanh chu vi phòng thủ. khi vc tân công, nhiều lính vnch bỏ chạy, kể cả trung đoàn trưởng, từng được huy chương 13 lần do dũng cảm. việc rút chạy này để lại 200 lính vnch, mà rất nhiều bị thương, và 16 cố vấn. họ lập 1 chu vi khoảng 1 km cách vị trí cũ. Do áp lực của Mỹ, tl của sđ 5 đồng ý hành quân trực thăng vận - 1 điều rất hiếm vào lúc đó. trực thăng mỹ đổ xuống 1 tđ lúc 2000. họ bị bắn quấy rối suốt đêm.

lúc 0700 ngày 10/5, trực thăng đổ xuống 1 tđ dù, để bảo vệ kẻ sống sót và bảo vệ cuộc triệt xuất vào buổi chiều cùng ngày. KẾT QUẢ: 32 lính vnch chết, 122 bị thương, 36 mất tích, 1 trực thăng rơi và gần 100 súng bị mất. VC có 4 chết, 3 bị bắt và 4 súng bị tịch thu.

 TRẬN BÙ ĐỐP THÁNG 7 1965

Trại Bù Đốp ở đông bắc SG trong vùng 3 chiến thuật, gồm 289 DSCĐ người S-tiêng và người Việt chỉ huy bởi 8 LLĐB VN, trại trưởng là một đ.u. VNCH. Ngoài ra còn có 6 LLĐB Mỹ làm cố vấn. Phần còn lại của toán này là A-341B đặt tại trại Bùi Gia Mập, 32 km về hướng đông, với 7 LLĐB Mỹ làm cố vấn (chỉ huy bởi trung úy Olivaz), hai đ.đ. DSCĐ, và một đ.đ. phản ứng nhanh người Nùng (130 người). Lúc 0100 ngày 20/7/1965, trại Bù Đốp bị pháo nặng nề bởi cối và súng không giựt (SKZ) khiến toán trưởng bị thương nặng, làm hư máy phát điện, và vô hiệu hóa máy truyền tin duy nhất (sideband radio). 

VC đã tấn công chu vi phòng thủ, dùng thang leo qua hào sâu. Họ cũng tràn ngập bunker ở tây bắc, nơi mà các người lính phòng thủ đã chiến đấu tới người cuối cùng, trong khi súng phun lửa và các toán khác tấn công chu vi phía bắc. Quân VC chạy nhanh vào trại và nổ súng vào 30 DSCĐ đang giữ mặt tây bắc của trại. Ba trung sĩ Mỹ ở mặt bắc gần kho tiếp tế đã phản công bằng trung liên, M16, và mìn claymore. Hai người chết và 1 bị thương. Một số VC đã vào hàng rào bên trong, nơi mà âm thoại viên và chuyên viên vũ khí cận chiến với chúng trong ổ súng 107 ly. 

Trong bóng đêm tối đen, ánh sáng chỉ lóe sáng khi lựu đạn nổ, hỏa châu, hay đạn đánh dấu (tracer); trong khi đó cận chiến quanh nhà ăn của trại, các chiến hào, và khắp trại. Trưởng trại người Việt đã anh dũng chiến đấu, điều động binh sĩ tới những vị trí sung yếu. Ông tăng cường cho bunker ở góc đông nam kịp thời, hạ hàng chục quân tấn công đang cố gắng vượt qua hàng rào phòng thủ và ném chất nổ vào vị trí này. 

Lúc 0230, máy bay tới, thả hỏa châu, soi sáng mục tiêu giúp chiến đấu cơ tấn công VC nơi trống trải và nơi tập trung. Trận đánh tiếp tục bằng cận chiến bên trong trại và dọc tường. Hai lính LLĐB Mỹ từ hố súng cối đã chỉ huy cuộc phản công tới phía đông và bắt tay với đại úy người Việt. (Như đã nói, trại Bù Đốp chỉ huy bởi 8 quân nhân LLĐB Việt Nam, cố vấn bởi 6 LLĐB Mỹ -- ND). Trong lúc đấu súng, một âm thoại viên bị trúng đạn ngả gục bởi 1 toán lính VC đang thu hồi xác và trang bị. Đợt tấn công cuối cùng của VC băng ngang sân bay ở bờ đông của trại đã bị đẩy lui lúc 0800, và những lính phòng thủ phấn khởi đã giương cờ nam vn ở cổng đông. 

quân tăng viện được trực thăng tới bù đốp vào lúc trưa, phần lớn từ bù gia mập. trại này, được dự trù sẽ đóng cửa, đang bị tấn công quấy rối. cuộc di tản vội vả của bù gia mập đã khiến phải phá hủy và bỏ trại trong cùng 1 ngày, dẫn đến phải phá hủy tại chỗ những gì ko mang đi. cuộc tấn công thực hiện nhịp nhàng của vc đã gần như tràn ngập trại bù đốp trước khi bị đây lui bởi cận chiến giữa 2 bên, dưới sự lãnh đạo dũng cảm của đ.u. trại trưởng người viêt, sau khi trưởng toán llđb mỹ bị thương trong đợt pháo cối đầu tiên.