Thursday, september 22, 2011
BÁNH XE ĐỊNH MẠNG HAY CUỘC ĐỜI "LÊN VOI XUỐNG CHÓ" CỦA TÔI
Hiểu tức là nhớ lại -- Nhà toán học cổ Hy lạp Platon.
Thành La Mã ko thể xây trong 1 ngày -- châm ngôn Tây phương.
I/ Để có được kiến thức như hôm nay, tôi đã trải qua rất nhiều chông gai khó nhọc vì tôi đã gần như hoàn toàn TỰ HỌC.
1/ Trong sách Gia ngữ, đức Khổng Tử đã dạy như sau:
Người quân tử có ba điều phải nghĩ:
a. Lúc nhỏ nếu ko học , đến lúc lớn ngu dốt, ko làm được việc gì.
b. Lúc giàu mà ko biết bố thí, đến lúc khốn cùng chẳng ai cứu giúp.
c. Lúc già, nếu ko đem những điều mình biết để dạy kẻ khác, lúc chết chẳng ai thương tiếc.
2/ Trồng đậu thì được đậu, trồng khoai thì được khoai -- tư tưởng Phật giáo.
3/ Những gì, mà bạn có được hay xảy ra đến với bạn, đều xuất phát từ kiếp trước. Dù bạn ko thể thấy được kiếp trước nhưng tôi có thể nói chắc với bạn rằng chúng ko đến với bạn một cách ngẫu nhiên -- kinh nghiệm của bản thân .
II/ Thưa các bạn:
Tôi viết bài này để nói lên sự phấn đấu không ngừng của tôi, dù cho bịnh tật triền miên từ nhỏ. Tôi được ông bà dạy rằng: "ở đời ko gì khó hơn học chữ"; bởi vậy tôi muốn khuyên các bạn trẻ phải ko ngừng học tập; vì trong cuộc đời này, khi bạn đứng lại, tức bạn đã thụt lùi, vì kẻ khác sẽ vượt qua bạn. Bạn ko nên nghĩ rằng cứ học tà tà rồi cũng vượt qua; kinh nghiệm cho thấy, học giỏi ở trung học chưa chắc đã giỏi ở ĐH: một số HS của tôi chỉ học hết lớp 12 rồi nghỉ vì nói ĐH Mỹ quá khó, học ko vô !
Chỉ có những em có năng khiếu hay có cha mẹ có trình độ ĐH kèm cặp mới vững tiến vào con đường đh. Trong cuộc đời này không có phép lạ đâu, các bạn trẻ ơi ! Bạn đừng bao giờ trông chờ cây cam trong vườn nhà bạn sẽ cho trái ngọt nếu bạn ko thường xuyên tưới nước , chăm bón cây đó .
Khoảng 14 tuổi gì đó (vì gia đình tôi dọn về nhà số 6-8 Đỗ thành Nhơn quận tư SG NGÀY 4 THÁNG 10 NĂM 1961, theo chỉ dẫn của chiêm tinh gia Trần Hữu Ích, và tôi đã bị bịnh nặng sau khi dọn về đây); tôi bị sốt cao, nằm mê man, muốn đi lại phải vịn vào thành giường. Từ đó về sau, tôi thường xuyên bị ốm đau. Người ta thì "lê gót khắp các sàn nhảy ở Sài gòn", còn tôi thì 'lê gót khắp các phòng mạch BS và bịnh viện'. Do bịnh nên thân thể ốm yếu, tay tôi hay bị rung nhẹ, ko thể làm những việc đòi hỏi sự khéo léo (dexterity). Sau này qua Mỹ mới biết đó là hội chứng đường hầm cổ tay (carpal tunnel syndrome). Phản xạ lại quờ quạng, do vậy sau này, lúc ở quân trường, các đồng đội ít cho tôi tham gia các bài trung đội tấn công ngày, v.v... vì họ sợ cả trung đội bị phạt vì có 1 ' con vịt đẹt'.
Thuở nhỏ, vì quá dở, nên tôi đã không vào nỗi đệ thất trường công. Tôi đã học các trường tư như Kiến Thiết, Hàn Thuyên, Hưng Đạo và Bồ Đề, đều ở SG. Tôi chọn Pháp văn là sinh ngữ chánh, Anh văn phụ.
Tôi còn nhớ, lúc ở đệ thất thì học L' Anglais Vivant, các năm sau đó học các giáo trình như Practice Your English, Let's Learn English, v.v... Tôi chưa học quyển American Streamline, có lẽ sách này dành do các học sinh chọn Anh văn làm sinh ngữ chánh. Và gần như ko có dịp nói chuyện với Mỹ, nên phát âm rất dở.
Khoảng lúc học đệ ngũ/đệ tứ gì đó, ba tôi có thuê 1 gia sư (précepteur), đã từng ở Pháp, về dạy Pháp văn cho tôi và Sĩ-người em kế của tôi; do đó tiếng Pháp của tôi khá nhứt lớp Pháp văn của thày Hoàng Cung. Lại nữa, lại có chú Trần Thể (lúc đó đang học kỹ sư điện tại Cao đẳng Phú Thọ) ở trọ nhà tôi, khuyên tôi nên đọc các sách toán bằng tiếng Pháp của các GS Brachet et Lebossé và Une Réunion de Professeurs.
Nhưng tiếng Anh đã đến với tôi qua một con đường rất ĐỘC ĐÁO, nghĩa là ko giống ai. Số là từ khi người Mỹ có mặt ở Sài gòn, khoảng đầu thập niên 1960, rải rác ở vỉa hè các con đường lớn như Lê lợi, Lê văn Duyệt, v.v... đã xuất hiện các nguyệt san như National Geographic, Life, v.v... nhưng tôi đặc biệt đam mê tạp chí National Geographic, viết tắt là NGS, vì chúng có nhiều hình ảnh, phần lớn là màu, giúp ta hiểu biết những đất nước xa lạ. Thế là thỉnh thoảng tôi mua 1 cuốn: khi đọc tạp chí này, chữ nào ko biết thì tra tự điển Anh-Pháp Pháp-Anh. Tôi còn nhớ cháu Phượng cũng thích đọc nguyệt san NGS này dù ko hiểu nghĩa vì cháu chỉ khoảng 3-4 tuổi.
Có một lần, khoảng tuổi 16, trong khi đi dạo bên hông Bộ Công chánh VNCH, lề đường chỗ này rất lượm thượm vì ko có hàng quán gì hết, trong khi bên kia đường thì toàn cửa tiệm, tôi thấy 1 chỗ có bày bán nhiều tạp chí này. Anh chủ, một người cụt tay, hỏi tôi muốn mua trọn bộ ko? Tôi đồng ý. Thế là tôi đã ĂN CẮP tiền của cha mẹ để mua 1 bộ NGS từ cuối thập niên 1940 đến số mới nhứt, bao gồm bản đồ, các số đặc biệt, phải dùng xe ba gác chở về nhà. (Vì ba tôi có nhiều công trường xây dựng ở nhiều nơi khắp nước nên ông thường xuyên vắng nhà, má tôi thỉnh thoảng đi mua sắm hay phát quà tại viện cô nhi, v.v... (họ mời vì ba má tôi là mạnh thường quân), nên ba má giao cho tôi chìa khóa tủ tiền để đưa tiền cho thày thợ ở SG khi họ có nhu cầu mua sắm, v.v... Họ chỉ cần đưa hóa đơn là tôi xuất tiền. Khi nào tủ tiền sắp cạn, tôi báo cho ba tôi để ông sai người ra ngân hàng lãnh tiền để bỏ vào tủ. Vì ba tôi tin tôi, nên ông ko bao giờ hỏi số dư trong tủ là bao nhiêu, do vậy tôi lấy tiền mua sách mà ông ko biết). (Sau năm 1981, có vợ chồng 1 cựu sĩ quan Mỹ, quen biết với em gái, đến thăm. Thấy bộ NGS này, ông nói, tôi là người Mỹ mà ko có bộ sưu tập như vậy!)
Học hết đệ tam thì do bịnh quá nên mỗi năm tôi chỉ học đệ nhị tại trường tư thục Bồ Đề quận Nhì SG vài tháng rồi nghỉ, dù đi học có xe nhà đưa rước, và tôi cũng học hàm thụ (by correspondence), họ gửi bài và tôi làm bài tập gửi cho họ. Học ba năm liên tiếp, khó khăn lắm tôi mới có Tú tài 1 vào năm 1966. Vì ko thể đậu Tú tài 2 để vào ĐH nên tôi đã nhập ngũ SQ vào khóa 8 năm 1968.
Như đã nói, do thể chất yếu đuối, phản ứng quờ quạng nên ở quân trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, tôi thường trực phòng vào ngày có bài học đòi hỏi về thể chất như leo núi, v.v... Khi học các bài trung đội tấn công ngày hay đêm, ko trung đội nào muốn tôi tham dự vì sợ phản ứng quờ quạng của tôi sẽ khiến cả trung đội bị phạt.
Ra trường năm 1969, tôi phục vụ tại TĐ 53 địa phương quân tại quận Hốc Môn tỉnh Gia Định, và sau đó làm tại ban Thông tin Báo chí Biệt khu Thủ đô. Nhiệm vụ của tôi là đọc báo chí bằng tiếng Việt hay Anh hay Pháp. Nếu có bài nào nói đến quân đội VNCH hay thủ đô Sài gòn thì dịch và trình lên trung tướng tư lịnh Nguyễn văn Minh. Vốn sẵn khá 2 ngoại ngữ nên tôi rất thích hợp với công việc. Cũng do nghề nghiệp này nên đã có DUYÊN NỢ rất sớm về đề tài CHIẾN TRANH VN.
Đến năm 1973, vì một sq của sđ 7 bộ binh xin thuyên chuyển về Biệt khu Thủ đô, do tôi nhẹ gánh gia đình nên phải hoán chuyển với y. Tôi phục vụ tại TĐ 2/10 thuộc sđ 7. Vì ko có kinh nghiệm chỉ huy và tác chiến, tôi đã bị một số sq ở đv này coi thường. Tôi ko lấy làm buồn vì nghĩ rằng mình quá dở nên mới bị như vậy. Tôi dặn người nhà, mỗi tháng ra sạp báo lấy cho tôi 1 quyển NGS. Tôi suýt quên, thời gian làm việc ở SG, tôi đọc nhiều tạp chí như Life, Time, Newsweek, Paris-Match, Historia, v.v.. Tóm lại , lúc đó tôi đã là mọt sách (bookworm) rồi. Sách báo về KHKT, chiến tranh VN, y khoa (vì đọc để tìm hiểu bịnh của mình), khảo cổ, nền văn minh ngoài trái đất, v.v... đầy ắp 2 tủ sách, xem hình. Trong hình, ko còn nhiều sách báo vì sau 75, ba tôi đem sách báo về chiến tranh VN đem đốt hay cân ký, tuy nhiên ông vẫn giữ nguyên bộ NGS vì ông thích bộ này. Để che mắt CA, ông lấy trang bìa của Newsweek có hình HCM, xem hình, để lộng kiếng và treo ở nơi trang trọng trong phòng khách. Tuy thể chất yếu đuối, ko rành về quân sự, nhưng tôi có trí nhớ rất tốt, đến độ chỉ cần ai đó nói 1 đề tài gì, tôi sẽ lấy 1 tạp chí hay 1 cuốn sách có bài về đề tài đó.
Thời gian đi tù sau 1975, tôi hay chơi môn 'scrabble' rất xuất sắc với các anh bạn tù - là giảng viên văn hóa của Võ bị Đà lạt và có bằng ĐH tại Mỹ hay Úc. Môn này đòi hỏi phải có ngữ vựng phong phú về tiếng Anh. Vì kiến thức tổng quát quá nhiều, tôi còn được một số bạn tù gọi là "tự điển sống".
Ra tù năm 1981, tôi dạy Anh văn (AV) cho 1 đứa cháu đang học lớp 12, để lấy chứng chỉ trung cấp của quốc gia về AV. Tôi đã giúp nó làm bài đặc sắc đến độ thày giáo sinh nghi và hỏi cháu tôi như sau "Ai đã giúp trò làm các bài này?" Cháu tôi trả lời đó là bác tôi, mới ra tù.
Thời gian sau đó, tôi có vài ba năm trong nghề xây dựng; nhưng đam mê chánh vẫn là đọc sách (bằng tiếng Anh và Pháp) về đủ mọi đề tài như khảo cổ, tử vi dân bản địa Mỹ, y khoa, vật lý, điện, cơ học, kiến trúc, xây dựng, cơ khí xe hơi, v.v... Lúc bấy giờ lại có thêm sách KHKT từ Liên xô và các nước XHCN đưa qua, vừa tiếng Anh và Pháp. Do đó, tuy chưa bao giờ lái một chiếc Honda Dame 50 phân khối vì ko quen sang số; thế mà khi người em rể tên Quan đưa cuốn cẩm nang của chiếc moto mấy trăm phân khối mới tinh, nhờ tôi dịch giùm, tôi dịch rất trôi chảy.
Thỉnh thoảng đọc sách báo, khi gặp từ nào ko hiểu, thay vì tra tự điển hay tự điển ko có sẵn, tôi dựa vào NGỮ CẢNH (context) của cả câu mà đoán nghĩa của từ đó. Cũng có lúc, gặp chỗ nào ko hiểu, tôi bỏ qua và đọc đoạn kế tiếp. Sau này , đọc sách mới biết đó cũng là một phương pháp đúng để học ngoại ngữ.
Có lẽ có bạn thắc mắc tại sao tôi thích đọc sách y khoa. Vì quá nhiều bịnh, thường xuyên uống thuốc nên tôi đọc sách y khoa để tìm hiểu về bịnh lý củng như cách trị liệu. Tóm lại, ngữ vựng về y khoa của tôi cũng khá, mặc dù ko thể nào so sánh với các bs, đã học hành có bài bản.
Từ năm 1990 -1994, tôi làm thông dịch viên cho một người Pháp - làm việc cho 1 tổ chức phi chính phủ (ONG). Tôi nói tiếng Pháp ko bằng dân học trường J.J.Rousseau hay Marie-Curie nhưng vẫn được dùng vì kiến thức rộng rải.
Qua Mỹ, được 1 tháng, tôi giúp một người thi nghành nail qua việc dịch những bài về cơ thể học (anatomy) từ 1 cuốn sách dầy cộm.
Năm 1996, tôi đậu vào trường ĐH cộng đồng West Valley ở San Jose với hạng cao, nhưng ko học vì lý do sức khỏe.
Năm 1998 , vì bà con của một gia đình VN mới qua Mỹ năn nỉ quá, tôi đã dạy toán và Anh văn cho năm em của gia đình này. Tuy chỉ có 5 em nhưng trình độ khác nhau nên coi như tôi dạy năm lớp. HS có lúc trên 15 người vì có bạn bè của các em này. Tôi dạy rất trôi chảy; mặc dù đã hơn 30 năm ko ngó ngàn tới môn đại số và hình học thời trung học.
Sau đó, tôi bắt đầu nghiên cứu Lý thuyết Số/LTS (Numerology), một khoa tử vi xuất phát từ cổ Hy lạp (có trước Công nguyên). Sở dĩ tôi tin và truyền bá LTS đến bạn bè và bà con vì nó đã nói chính xác về tính tính và số mạng của tôi và một số người khác. Qua LTS, tôi đã biết ba người đưa đến sự sụp đổ của VNCH (TT Thiệu, TT Khiêm và tướng Phú) đều có tên bằng số 13 và những ảnh hưởng của số này đối với nước VN.
Khoảng năm 2001-2002, vì nhà gần thư viện lớn nhứt của SJ nên tôi tập tành xử dụng máy tính. Sau đó vài năm tôi mua được 1 máy tính cũ hiệu HP, chạy Windows XP. Vì máy hay bị hư, tôi tập sửa bằng cách vào thư viện, và tìm trên mạng cẩm nang (manual) của máy này và in lại những đoạn chỉ dẫn cách mở máy, cách thay thế ổ cứng, memory module, optical drive, bộ nguồn, thẻ âm thanh (sound card), v.v... Tôi đã từng tháo tung cái HP này, sau đó ráp lại, máy vẫn chạy. Sau này hệ điều hành Windows XP bị hư, tôi đã xài HĐH Linux.
Sau đó, một học trò cho tôi 1 laptop hiệu Gateway bị hư. Khi xách về nhà, tôi cứ nghĩ là xách 1 khúc củi vì tôi chưa bao giờ biết xử dụng laptop và cũng chẳng có manual của máy này. Thế là vào thư viện, in lại các đoạn chỉ dẫn cách thay pin, v.v...sau đó, đặt mua AC adapter. Cả tháng sau máy mới chạy vì tôi chờ cái adapter này gửi về.
Sau đó, bạn bè có PC hay laptop hư nhờ tôi sửa. Tôi sửa ko lấy tiền, và nhiều khi thức tới 2-3 giờ sáng để sớm giao máy và còn cho đồ phụ tùng như keyboard, wireless mouse, wireless adapter, USB flash drive, USB hub, print server (gần 40 đô), v.v...
Khi sửa máy, chổ nào ko biết tôi đọc sách hay đặt câu hỏi, bằng tiếng Anh, trên mạng . Thông thường có đến gần chục câu trả lời. Tôi áp dụng từng câu vào trục trặc của máy mình; nếu ko được thì áp dụng câu thứ hai và các câu kế tiếp. Nguyên tắc của tôi là nếu ko sửa được phụ tùng đó, thì cũng ko nên làm hư bất cứ một phụ tùng khác; tránh nạn ' trâu lành thành trâu què'. Có nhiều laptop ko có manual hay có mà ko đầy đủ, tôi phải tìm trên mạng 1 laptop có cấu trúc tương tự để áp dụng vào máy đang sửa.
Tôi đã từng sửa các laptop hiệu Gateway, Dell, Lenovo, HP, Fujitsu, Toshiba, Acer , v.v...
Thỉnh thoảng tôi giúp bạn bè điền đơn từ bằng tiếng Anh; trước kia tôi còn đi thông dịch nhưng nay do nướu teo lại răng giả ko bám được, nói tiếng Anh khó nghe nên ko làm.
Những người nhờ tôi sửa máy, có người rất giỏi tiếng Anh, trình độ đại học nhưng họ lại gần như mù tịt về vi tính. Trong khi nhiều người khi gỏ máy thì dùng cả 10 ngón, còn tôi thì chỉ dùng 1 ngón; nhưng nhờ quen mặt phím nên tôi gỏ chữ cũng nhanh. Tôi đã từng thay màn hình của 1 laptop, rất công phu, mất thời giờ, vì tay tôi ko khéo léo như người khác. Tuy nhiên, với sự chịu khó, tôi vẫn thành công.
Tôi đã từng sửa biết bao laptop cho bạn bè cũng như sửa laptop hư cũ, để cho người mới qua hay ko có máy dù đã ở Mỹ khá lâu.
Tôi có thể kết luận: mặc dù thể chất yếu đuối, bịnh tật triền miên từ nhỏ, chỉ ngồi ghế nhà trường hết năm đệ Tam, mấy năm đệ nhị chỉ học vài tháng, nhưng do học tiếng Anh bằng cách đam mê đọc sách, đặc biệt về KHKT, tôi đã:
- sánh vai cùng những anh chị em tốt nghiệp đại học tại Mỹ về ngữ vựng tiếng Anh.
- dạy toán và Anh văn.
- giúp bạn bè láng giềng làm đơn từ dịch thuật và vi tính.
- biết sửa chữa pc và laptop.
- giúp bạn bè láng giềng về phone và máy tính bản.
Nói thêm: theo 1 tài liệu, để nói được tiếng Anh với những đề tài thông thường, bạn chỉ cần biết khoảng 3-4 ngàn từ; để viết được tiếng Anh , bạn phải biết khoảng 100 ngàn từ; và để đọc được tiếng Anh, bạn phải biết gần nửa triệu từ . Tài liệu này được công bố khi computer và internet còn phôi thai; nay với hai kỹ thuật mới này, ngữ vựng tiếng Anh, mỗi ngày mỗi nhiều, ko còn đứng ở con số nữa triệu nữa. Năm 1994, khi mới sang Mỹ , tôi đã gặp nhiều sq, đã học hết bậc trung học khi ở VN; lúc qua Mỹ , họ ko thể đọc nỗi một nhựt báo bằng tiếng Anh ! Thành ra, họ xoay qua làm assembler về electronics, hay đi bỏ báo, v.v... Chỉ có những sq nào, có căn bản Anh văn từ ở VN, thì mới có thể thi đậu vào các ĐH cộng đồng; nhưng họ chỉ học thêm một số ngữ vựng liên quan đến nghành học của họ. Có một số rất ít, do phấn đấu đặc biệt, đã leo lên những chức vụ cao hơn.
Hiện nay về dịch thuật đề tài chiến tranh VN, chỉ có tôi và BĐQ Vũ Đình Hiếu (trước 75 thuộc LĐ 22 BĐQ). Hình như trước năm 1975, ông có trình độ ĐH, cấp bực chuẩn úy và di tản trước ngày 30.4.75. Ông thích dịch các đề tài về BĐQ và lực lượng đặc biệt VNCH. Nhưng hiện ông ko thường xuyên có bài như tôi, có lẽ đã chán nản về đề tài này. Ngoài ra còn có ông Đỗ văn Phúc, trước đây là thông dịch viên cho LLĐB Mỹ ở Quảng Trị, sau đó về trung đoàn 8 của sđ 51, sau này chuyển qua không quân, làm việc trên máy bay C-130. Ông này sau 75 cũng đi tù. Qua Mỹ ông dịch 1 số bài về chiến tranh VN. Tóm lại, nếu tôi ko lầm, hiện nay tôi là người duy nhứt tại Mỹ THƯỜNG XUYÊN dịch đề tài này. Tất cả cũng nhờ ĐAM MÊ, dù sức khỏe suy yếu nhiều với nhiều bịnh của tuổi già.
San Jose ngày 23/09/11 lúc 0022 am. Cập nhật ngày 7/6/25.